Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

Ngô Minh – nhà thơ của biển đảo quê hương

 Ngô Minh – nhà thơ của biển đảo quê hương

Hẳn ai đã từng đọc thơ Ngô Minh sẽ không thể quên những miền “cát trắng tinh”, từng lớp sóng vỗ ru hay những cảnh tượng biển với đủ kiểu trạng thái lúc dữ dằn ghê rợn, lúc lãng mạn trữ tình, lúc đau thương tột cùng cũng có lúc đằm thắm chất chứa yêu thương đã dệt nên một hồn thơ tha thiết với quê hương, với biển đảo mà như ông đã từng ao ước: “Những câu thơ như vỏ sò vỏ ốc/ Với mênh mông tiếng biển trong lòng”.
          Có thể nói, hành trình thơ ông là hành trình tiếng thơ hòa vào với tiếng biển ru mỗi ngày, là hành trình tiếng lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của một người lính trở về sau bao năm trên chiến trường. Dù xuất hiện khá muộn trên thi đàn so với bạn bè trang lứa nhưng thơ ông đã khẳng định được vị trí và sức vang trong dòng chảy văn học Việt hiện đại. Trên chặng đường sáng tạo, ông đã dành tâm huyết rất nhiều cho những vần thơ về biển đảo. Có thể nói, biển đảo là hình ảnh không thể thiếu trong mỗi dòng thơ của ông. Hành trình từ tập  “Chân sóng”, “Quà tặng xứ mưa:, “Đứa con của cát, “Phù sa biển”, “Huyền thoại Cửa Tùng” cho đến “Kí tự biển”,…          biển đi vào thơ một cách tự nhiên và ở lại sâu lắng trong lòng người. Biển trong thơ ông không còn là một hình ảnh của đời thực tự nhiên mà nó đã trở thành một nhân vật với bao nỗi niềm lắng đọng và một tình yêu gần gũi, bao la, chân thành như chính lòng mẹ vỗ về, ôm ấp. Đến với những vần thơ chan chứa tình với biển đảo là do “sự hợp tác của cơ duyên” hay là chính nội tại trong lòng tác giả, tất cả đều lí giải cho một hồn thơ đầy nhiệt huyết và sục sôi lòng yêu nước. Ai cũng biết rằng ông sinh ra ở làng Thượng Luật, xã Ngư Thủy Trung, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, là nơi mà như tác giả đã tâm sự: “Từ thửa mẹ đẻ rơi tôi bên bờ chân sóng, trong tôi biển đảo Việt Nam là hoàn thiện, giống như làng tôi vậy. Tập thơ nào tôi cũng có nhiều bài thơ về biển, có tập toàn về biển…”, là “cội nguồn cảm xúc thi ca đời tôi. Bởi thế trong thơ tôi có nắng cát biển muối Quảng Bình, lại có hạt hồ tiêu cay nồng…”. Bên cạnh cái “cơ duyên” tự nhiên đó, yêu biển đảo còn xuất phát từ những năm tháng tham gia quân ngũ, chính những năm tháng tôi luyện trên chiến trường đã thổi thêm và hun đúc cho ông lòng yêu quê hương đất nước vốn đã có nền tảng ngay từ ông còn nhỏ. Vì thế, nếu ai chưa hiểu được hoàn cảnh trước đây của chính tác giả thì không thể hiểu được lòng yêu nước của ông trung thành và tuyệt đối đến chừng nào.
Hành trình về với biển, nhà thơ như về lại về chính ngôi nhà, ngôi làng của mình – nơi chôn giữ bao kí ức ngọt ngào và lưu luyến nhất: “Ta về uống câu buồn đời mẹ đời cha/ từ xửa từ xưa truyền qua tao võng/ nhận ra bao điều mới mẻ trong ta/ về cúi mặt soi vào từng hạt cát/ gặp ảnh hình sáng láng giữa phong ba” (Truyền thuyết làng chân sóng). Không những thế, trở về với biển còn chính là sự trở về với  cội nguồn dân tộc, trở lại nơi ta được sinh ra và mãi mãi khắc ghi dấu ấn cội nguồn:
                              Biển là mộ, làng ơi, con nhớ
tháng Bảy sóng nhảy qua bờ
tháng Bảy giỗ mạ, giỗ dì Quế và giỗ Biển
con lại về cúng biển
hóa vàng thơ...
                          (Mộ biển)
Đó còn là nơi thiêng liêng để khi quy tiên con người ta lại hướng về và nơi đó như là nơi gần gũi, thân thuộc như những cánh đồng, ngôi làng, thân yêu mà ta từng sở tại một thời :
 mộ ông nội ta nằm quay ra hướng biển
mộ bà nội ta nằm quay ra hướng biển
mộ ba ta nằm quay ra hướng biển
mộ mạ ta nằm quay ra hướng biển
đời nội ngư trường Hoàng Sa như cánh đồng làng
đời ba ngư trường Trường Sa như cánh đồng làng
                                (Thức với làng biển Thượng Luật)
 Chính vì thế, biển đảo quê hương luôn là tiếng mời gọi thôi thúc trong lòng tác giả “Quê hương ơi/ Cửa Tùng Vĩnh Quang Cát Sơn Thủy Bạn/ gió lạnh bên này bên ấy tìm chăn/ dòng sông hẹp chỉ còn bước nhảy/ người tìm sang và cát tìm sang/ hai mươi năm sông thành máu chảy/ biển lập lòe lửa nhang sớm tối” (Mộ biển). Biển là nơi hội tụ mọi nguồn thi hứng cho tác giả, là niềm tự hào trước hết thảy vạn vật và với các cường quốc trên thế giới về một đất nước có đường ven biển trải dài từ Bắc xuống Nam: “Đây tuổi trẻ của ta/ đây tình yêu của ta/ kìa nhánh san hô tận cùng đáy cát/ lắc lư sắc biển chói lòa…” (Phù sa biển). Chính sự kiêu hãnh về một vị thế khá độc đáo đó của bờ biển Việt Nam, nhà thơ Ngô Minh lại có thêm điều kiện để khởi thảo nên một vùng biển với bao lớp lang tầng nghĩa ẩn kín về một không phận không tách rời với đất liền. Dưới con mắt nhà thơ, biển hiện lên với bao suy tư, nỗi niềm như một chứng nhân lịch sử đầy trải nghiệm, đầy đau thương, mất mát nhưng cũng đầy niềm tự hào về sự oanh liệt và kiên cường, bất khuất, biển đồng hành cùng người dân chiến đấu:
“Tất cả ngư dân vùng biển Vĩnh Linh ban ngày bắn máy bay, ban đêm họ lại đẩy thuyền ra biển, vận tải tiếp tế sung đạn, lương thực, thuốc men, quần áo, gạo cơm và cả những bài hát ra đảo Cồn Cỏ phục vụ chiến sĩ ta đánh giặc. thuyền vận tải là thuyền vỏ trấu huyền thoại được đóng bằng gỗ…Đảo Cồn Cỏ là trái tim biển. Để cô lập Cồn Cỏ anh hùng, giặc Mỹ thường xuyên đánh phá, ngăn chặn con đường tiếp tế dân gian bền bỉ này…Nhiều người trong số họ đã hi sinh trên đường ra đảo hoặc từ đảo trở về, nhiều người họ bị địch bắt, bị mất tích vì thuyền chìm…Tất cả họ đã trở thành muối mặn, thành gió nắng Cửa Tùng”  (Mộ biển)
Một điều dễ nhận thấy trong thơ là ông luôn tái hiện được những trận đánh qua hình ảnh người lính biển cầm chắc tay súng bảo vệ vùng trời của tổ quốc và qua ý chí sôi sục “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của quân và dân ta:
Các chiến sĩ cảnh sát biển, kiểm ngư Việt Nam ơi
Giặc đã đâm dao vào cơ thể Tổ Quốc
90 triệu người Việt Nam hóa 90 triệu cọc Bạch Đằng
90 triệu người thành 90 triệu Dã Tượng, Yết Kiêu
Biển Đông dậy song
(Thơ tặng chiến sĩ Cảnh sát biển và Kiểm ngư Việt Nam đang chiến đấu ở Hoàng Sa)
Cũng từ  đó, biển là nơi các anh tựa lưng khi về với đất mẹ sau tháng ngày canh giữ, chiến đấu với kẻ thù muốn chiếm đóng tấc biển Việt Nam: “Hải đội Hoàng Sa xưa hi sinh vì Tổ Quốc/ Thắp cho linh hồn 74 chiến sĩ giữ đảo năm 1974  (Nắm cát Hoàng Sa). Biển là nơi lưu dấu hình ảnh những con người kiên trung hi sinh vì Tổ quốc, vì nền hòa bình và lãnh hải bất khả xâm phạm:
Làng ơi
Bên trái ta là eo Tàu Đồng, bên phải là xóm Tàu Sắt
Những con tàu xâm lăng bỏ xác một thời
Chị dâu ta trung đội trưởng pháo tầm xa 85 ly
Bạn gái ta mười đứa là pháo thủ
Năm lần bắn cháy tàu chiến Mỹ
“Xê gái pháo binh Ngư Thủy” hóa tượng đài
 Vĩnh hằng trước biển
                                    (Thức với làng biển Thượng Luật)
Chính những điều đó đã hình thành nên một cảm quan về biển hoàn toàn khác biệt trong thơ ông so với những nhà thơ cùng hướng ngòi bút về biển đảo. Những suy tư về biển, những mất mát không nhìn thấy thi thể và cả những “Tiếng sóng không vọng lên từ biển mà từ muôn tầng đất, từ tâm thức con người hai mươi bảy năm sau cuộc chiến, là tôi, về gối đầu lên ngổn ngang ký ức ngay nơi rốn của lịch sử đất nước, đời mình” đã hình thành nên một tứ thơ chất chứa nỗi niềm về biển đảo quê hương. Cùng viết về biển nhưng ở nhà thơ Ngô Minh, biển vượt ra ngoài khung nghĩa thông thường và  mang một tinh thần rộng lớn nhân văn hơn. Biển trong thơ ông không những đẹp ở cái cảnh tự nhiên mà còn mang vẻ đẹp lắng đọng trong hồn người, biển chính là lòng mẹ ôm ấp, vỗ về, soi chiếu bước đường con đi và cũng là nơi gọi mời con trở về trên suốt hành trình dài đầy thử thách, khắc nghiệt của cuộc đời. Điều đặc biệt, biển còn là ngôi mộ lớn, là ngôi mộ chung của dân làng chứ không riêng gì là mộ của những chiến sĩ giữ đảo cách riêng: Mộ cả làng tôi bên biển/ Biển cũng là ngôi mộ lớn, làng ơi. Vì thế “những ánh mắt tắt đỏ đêm Cửa Tùng như những linh hồn ấy cứ hút tôi tới gần/ Ôi, biển ơi, cát ơi, Người không ngủ, những đốm lửa cháy tự bao giờ…/ Ồ, những nấm mộ biển, những chum hoa muống biển và những que nhang…” luôn hiển hiện trong chính suy nghĩ của nhà thơ. Chính những con người một đi không trở về đã chọn biển làm nơi nương náu sau hết, xem lòng biển như chính lòng mẹ đón con về sau những tháng ngày gian lao trên cõi trần lại là nơi hẹn ước cho lời thề còn bỏ ngõ: “Ra với biển là đến với anh/ là ra với tình yêu bất tử/ thắp nhang cho anh thắp nhang cầu nguyện biển/ biển ơi, biển mãi ắp đầy”. Nhớ thương, sầu tủi muốn chia sẻ với người cùng chung chăn gối không “giấy báo tử” nhưng không có người trở về nhưng người đàn bà vẫn lặng lẽ thắp nhang khấn vái trước “biển đêm vẫn rì rào bí ẩn và lấp lánh như ánh mắt anh cười lúc vác mái chèo chào tạm biệt vợ con. Biển không hề thiếu vắng điều gì, vẫn mặn vẫn sâu trong kí ức của chị” (Mộ biển).
Không dừng lại ở đó, biển trong thơ ông còn mang nét nghĩa ngợi ca sự giàu đẹp và trù phú. Càng về với biển, càng đi sâu vào lòng biển ta mới thấy hết dư vị của nó. Biển không chỉ mang lại đời sống tinh thần hay tạo nguồn thi hứng mà biển còn là một kho lương thực dự trữ giàu có của quốc gia, dân tộc. Biển mang lại những thực phẩm cốt yếu cho đời sống của con người. Vì thế, Ngô Minh không khỏi ngần ngại khi viết “cơm áo, bài ca/ tôi cất dành trong biển”. Hay Biển như mâm cơm/ Đảo là bát úp/ Biển là làng/ Đảo ngoài khơi dang tay che chắn ( Ký tự biển). Chính vì thế, biển giữ một vai trò hết sức quan trọng “giọt máu là giọt biển/ giọt mồ hôi là giọt biển”.
          Có thể nói rằng, viết về biển nhà thơ Ngô Minh đã hòa hồn mình vào với biển để “đi tìm lại chính mình…đi tìm lại tình yêu như lửa/ nguồn đất sâu sinh ngọn gió mát lành” một thời vóc dáng đánh Mỹ với quyết tâm rũ bỏ những ớn hèn. Chính những “ngôi mộ vừa đắp gió khỏa bằng”, những đau thương, mất mát đã ngấm vào cơ thể như một vi chất không thể thiếu trong chính sự tồn tại của mình và được bộc phát qua những dòng thơ đầy cảm nghiệm về nỗi đau thương mà biển phải gánh lấy. Từ đó làm dậy lên những dòng thơ đầy trăn trở của một thi sĩ yêu nước chân thành, tuyệt đối: “chẳng làm được gì cho cuộc đời đổi khác/ chẳng làm được gì cho biển bớt đau thương…”.
                                                 -         Bùi Ánh –
Tài liệu tham khảo
1.     Tập thơ Chân sóng, NXB Hội nhà văn, 1995
2.     Tập thơ Đứa con của cát, Sở văn hóa thông tin Quảng Bình, 1998
3.     Tập thơ Phù sa biển, NXB Thuận Hóa, 2001
4.     Tập thơ Huyền thoại Cửa Tùng, NXB Thuận Hóa, 2004

5.     Tập thơ Ký tự biển, Bản thảo

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2014

Nỗi buồn rất ngọt lén chặt vào tim
Để những đêm
Khi trời đã khuya
Ngồi tỷ tê bên đám cỏ
Em cứ nghĩ cỏ cây cũng vô hồn
Không biết nghe những gì em nói
Ấy mà nó thấu tỏ nỗi buồn rất thật tim em
— 
Tôi trở về đây lúc trăng vừa lên....

Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2014

PHÂN TÍCH BÀI THƠ “THÁNH NỮ ĐỒNG TRINH MARIA” CỦA HÀN MẶC TỬ
                                                                                             Bùi Ánh
  
Trong phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử là một tài năng lạ. Mặc dù cuộc sống  trần thế của thi nhân với nhân loại quá ngắn ngủi nhưng không vì thế mà khi rời xa cõi trần lại không ai biết đến. Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) sinh ra trong một gia đình sùng mến đạo, từ đó đã xây dựng cho Hàn Mặc Tử một nền tảng đức tin vững vàng, kiên cố. Hàn Mặc Tử sớm “thấm nhuần ơn trìu mến” của Đức Chúa chí nhân và Mẹ Maria từ bi. Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, lúc vui cũng như lúc buồn, lúc khỏe mạnh cũng như lúc đau đớn ông luôn nghĩ đến Chúa – Mẹ, đặc biệt là lúc cận kề với cái chết “suốt ngày chỉ biết đọc thơ và nghĩ đến Chúa”. Những hoạn nạn ở cuộc đời trần thế như vậy nhờ có niềm tin tôn giáo mà ông đã phần nào trấn an được tinh thần để có thêm nghị lực chống chọi với căn bệnh quái ác này. Trong số các sáng tác mang đậm màu sắc tôn giáo thì bài thơ mà Hàn Mặc Tử đã làm để ca ngợi vẻ đẹp của Đức Mẹ Đồng Trinh là đặc biệt hơn cả. Bởi bài thơ đã chứa đựng một cái gì đó rất riêng, rất độc đáo và đây còn là tư tưởng của nhiều “con chiên” sùng kính đạo. Hơn nữa, bài thơ đã kết hợp được ngôn ngữ của Đạo phật với ngôn ngữ của Thánh Kinh và tâm tình thành kính của chính thi sĩ.
Chúng ta thấy rằng trong tất cả các hình thái ý thức xã hội ít có lĩnh vực nào lại có nhiều điểm gặp gỡ và tương đồng như trong tôn giáo và thi ca. Cả hai hiện tượng này khác nhau nhưng lại dễ gặp nhau trên nhiều phương diện. Cả hai đều có hướng nội sâu sắc, có sự thể hiện nội tâm nhạy bén, cả hai đều trầm tư, tĩnh lự, coi trọng niềm tin và chúng đều cần đến một thứ ngôn ngữ diễn đạt “ý tại ngôn ngoại”… Tôn giáo cũng như thơ ca luôn luôn vận động, biến đổi để phù hợp với thời đại. Trong thời đại mới này, tôn giáo  cũng tìm cách chuyển mình để thích ứng bằng cách loại bỏ những lối  tư duy cổ hủ, hình thức cầu kỳ, tính chất câu nệ và giáo điều, thay vào đó là sự khoan dung, hòa hợp và vô ngã. Cùng viết về tôn giáo không chỉ riêng Hàn Mặc Tử mà còn có rất nhiều nhà thơ cũng tìm đến địa hạt của tôn giáo như: R. Targor (Ấn Độ), Êxênhin (Nga), Vương Duy,…
          Chúng ta biết rằng cuộc sống của nhà thơ là sự vật lộn suốt đời với bệnh tật đeo bám dai dẳng, bất phân thắng bại. Sự đau khổ về bệnh tật đã đày đọa thi sĩ lên đến tột đỉnh mà dường như người đọc luôn có cảm nhận rằng mọi sự đau đớn nhất, bi thảm và kinh hoàng nhất của cuộc sống xã hội nhân thế đang trút bỏ lên đôi vai gầy mòn của một thi mệnh thiên tài. Chính vì thế trong thơ ông có không ít những vần thơ quằn quại, đau đớn kiểu như:
Ta trút linh hồn giữa lúc đấy
Gió sầu vô hạn nuối trong cây
(Trút linh hồn)
          Hay:
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mãnh giấy mong manh
(Rướm máu)
          Đọc thơ Hàn Mặc Tử, độc giả luôn có cảm nhận trong tâm hồn nhà thơ trẻ không có sự xuất hiện của bức tường thành kiên cố nào về khoảng cách tôn giáo của mình và tôn giáo của người. Thơ ông luôn có sự đan xen giữa ngôn ngữ của Phật và ngôn ngữ của Thiên Chúa giáo. Chính sự kết hợp ngôn ngữ của các tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử đã phần nào cho chúng ta thấy được sự bình đẳng và ảnh hưởng giữa các tôn giáo với nhau trong cuộc sống của con người. Bên cạnh bài thơ Thánh nữ đồng trinh Maria, Hàn Mặc Tử cũng đã sáng tác rất nhiều những bài thơ ca ngợi lý tưởng đạo thiên chúa của mình như: Đêm xuân cầu nguyện, Nguồn thơm, Ra đời, Ngoài vũ trụ, Say thơ, … . Là thi sĩ của “Đạo quân Thánh giá” Hàn Mặc Tử đã không ngần ngại chủ trương sáng tác thi văn của mình khi khẳng định lý tưởng: “Đức chúa trời đã tạo ra Trăng, Hoa, Nhạc, Hương là để cho người đời hưởng thụ nhưng người đời phần nhiều u mê không biết tận hưởng một cách say sưa, và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí tôn”.
          Thánh nữ Đồng trinh Maria như là sự hội tụ niềm tôn kính, ngưỡng vọng của Hàn Mặc Tử đối với Đấng Chí tôn mang nhiều tước hiệu và đây cũng là tâm lý chung của hết thảy “Con chiên” đang một lòng hướng đến nguồn ân sủng đặc biệt mà tình yêu Thiên chúa đã dành tặng cho nhân loại.
Như song lộc triều nguyên: ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể
Và tổng lãnh Thiên thần quỳ lạy Mẹ
Tung hô câu đường hạ ngớp châu sa
          Đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta thấy xuất hiện hàng loạt những từ như: Ánh sáng, Lời kinh, Hương thơm, Hoa, Tiếng nhạc, … Những từ này không phải là một sự đưa vào thơ ngẫu nhiên mà có chủ đích của tác giả. Trong mỗi nhà Nguyện đều có đầy đủ những thứ này – Đây là sự trang hoàng trong Thánh đường, một cách khang trang, trọng thể và mỗi thứ đó đều mang trong nó một ý nghĩa khác nhau. Tất cả những thứ ấy kết hợp hài hòa với nhau tạo cho con người một cảm giác thanh tịnh, bình yên, đến với nơi đó ta như được trải nỗi lòng, quên đi hết những muộn phiền của thế gian và trở về với cái tôi bản ngã của chính mình. Đó cũng là nơi lòng ta tĩnh lại, tâm ta có thể lắng để hiểu sâu hơn thế giới nội tâm bên trong.. Hơn nữa, đây còn là một sự tưởng tưởng của nhà thơ về một cõi Thiên đàng tràn ngập ánh sáng và hương hoa, một niềm hạnh phúc vĩnh cửu của hết thảy con người đang trông vọng về Đấng Cứu Thế.
Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm luy vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ
Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ
Ngọc như ý vô tri còn biết cả
          Một điều hiển nhiên mà ai cũng biết về quá trình sáng tác thơ của Hàn Mặc Tử là càng về thời gian cuối đời thơ ông càng tha thiết sự thanh thản, an phận để chấp nhận chứ không còn là sự gào thét điên cuồng, dữ dội như thơ những giai đoạn trước. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, thi sĩ trẻ đang chuẩn bị tâm tình dọn mình cầu nguyện, ăn năn, sám hối để trở về cùng Chúa, cùng với các Thánh và Mẹ Maria để đi vào cõi vĩnh hằng nơi Vườn Xuân Như Ý. Cái “rưng rưng hai hàng lệ” bởi chàng đã nhận ra “nhân đức, từ bi” của các Đấng Tối Cao đã để cho chàng được vui vẻ “hớp bao nhiêu khí vị” của cuộc sống thực tại trần gian. Hình ảnh Mẹ Maria trong đoạn thơ gây một cảm xúc sâu xa trong lòng người đọc bất kể người theo tôn giáo hay không theo tôn giáo và hình ảnh này còn xuất hiện trong một số bài thơ khác như: Nguồn thơm, Say thơ:
“Toan ngất đi trong cơn mê khoái lạc
Mẹ dấu yêu liền vội đến tay nâng”
(Nguồn thơm)
          Hay:           
“Trăng tờ mờ một trời thơ sớm nở
Bao hoa hồng mầu nhiệm Nữ Vương xưa”
(Say thơ)
          Rồi sự ngợi ca, “khong khen” , cảm tạ còn được biết đến khi ngày đầu tiên Đức Trinh nữ Maria nhận được ân sủng Thánh đức của Thiên Chúa từ sứ thần Gabriel:
Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel
Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ
Người có nghe muôn vàn tinh tú?
Người có nghe náo động cả muôn trời?
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để ca tụng bằng hương hoa sáng lạng
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh
“Chính trong cơn bệnh hoạn của Chàng, mỗi lần chàng chết đi sống lại là chàng đều cảm thấy Bà Thánh Nữ đồng chinh Maria đến cứu chàng cả”. Vì thế, Người là “Nguồn Trăng”, là “Nguồn đau chầu lụy Nữ Đồng Trinh” để cho tôi “Thắp hai hàng cây bạch lạp” thể hiện lòng yêu mếm và “Sốt sắng cho đê mê nguyện ước” của một con chiên sùng kính đang đón đợi ngày giờ được cất về trời bên hữu Chúa. Và không ngừng hướng về “Nguồn thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu bi”:
Tấu lạy Bà, Lạy bà đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu !
Bên cạnh đó, những lời thơ bung trào thể hiện lòng yêu mến niềm tôn kính trọng vọng đến mầu nhiệm “Tình yêu Thiên chúa” đã mời gọi nhà thơ như nguồn mạch suối mát tắm dịu cho tâm hồn đầy đau khổ:
Đây tất cả hỡi ôi mình Thánh Chúa
Của tế lễ là nguồn thương chan chứa
Đáng trọng thiên nhiên và rất đáng mong ơn
Ly tao rằng đàn ngọc cũng đeo đờn
Bởi đạo hạnh rung muôn dây tình cảm
(Say thơ)
         Màu sắc tôn giáo cũng thể hiện rõ trong thơ Exenhin: đó là hình tượng gác mái nhà thờ, những gác chuông, cây thánh giá,...  
                                                Bóng hoàng hôn là là sà xuống thấp
                                                Trên mái tròn tầng tầng lớp nhà thơ
hay
                                               Ngày lễ thánh nhà thờ trên mọi nẻo
                                               Hương mật ong táo chín tỏa ngất ngây
         Bài thơ “Thánh nữ đồng trinh Maria” đã đánh dấu một chặng đường quan trọng trong hành trình tinh thần của tác giả. Hơn nữa, bài thơ như là một minh chứng cho sự cách tân về ngôn ngữ thơ. Bài thơ có sự xuất hiện rất nhiều những từ ngữ của nhà Phật, chẳng hạn như: “Từ bi”, “Ba ngàn thế giới” và rất nhiều từ ngữ khác gốc Phật giáo đã được dùng theo mục đích đáp ứng yêu cầu của văn chương mà không hề mâu thuẫn với nhau. Đồng thời với việc sử dụng từ ngữ thì bài thơ còn chịu ảnh hưởng cả tư tưởng lẫn tinh thần của nhà Phật. Không những vậy, thơ Hàn Mặc Tử còn có cả sự kết hợp của ngôn ngữ thơ ca với ngôn ngữ Thánh kinh công giáo. Mở đầu bài thơ tác giả đã sử dụng ý tứ của Thánh vịnh trong Kinh thánh.
Như một con nai khát khao nguồn suối
Hồn con khao khát tìm Chúa, Chúa ơi !
          “Song lộc triều nguyên” với ý nghĩa hai con nai chầu suối, Hàn Mặc Tử đã rất tinh tế và điệu nghệ để sáng tạo ra từ ngữ gọn và đầy đủ ý nghĩa như trong Thánh vịnh. Thơ Hàn còn có cả những từ ngữ được dùng thường xuyên trong các lời kinh nguyện và ngôn ngữ của Đạo Công giáo: Thiên đàng, kinh trọng thể, thánh thể, mầu nhiệm, tràng hạt, tông đồ, …
          Bài thơ Thánh nữ đồng trinh Maria nói riêng và trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của Hàn Mặc Tử nói chung đã cho độc giả thấy được một con người sống hết mình cho thơ và sáng tạo không ngừng. Với quan điểm “Sáng tạo là điều kiện cần thiết, tối yếu của thơ”, thơ Hàn Mặc tử có một sự khác biệt về chất – Đó là tư duy tôn giáo kết hợp nhuần nhuyễn với chất trữ tình trên cơ sở cái tôi cá nhân hiện đại. Chính tư duy tôn giáo là một công cụ hiện hữu để nâng cánh cho trực giác nghệ thuật tuyệt vời của thi nhân bay cao, bay xa vào cõi siêu hình.


                                                      

          

Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2014

BIỂU TƯỢNG “TRĂNG” TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ

    BIỂU TƯỢNG “TRĂNG” TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ
                                                        Bùi Ánh – CH18                         

1.1 . Mở đầu
Trải qua một thời kỳ khá dài trong lịch sử văn học trung đại, thơ ca không thể thoát ra khỏi những quy phạm chặt chẽ của thể loại. Và phải đợi đến những năm 1932 – 1945 của nền văn học Việt Nam hiện đại, thơ ca mới có bước bứt phá làm chuyển động, rạn nứt cả hệ thống nền tảng kiên cố về thi pháp thể loại. Phải nói rằng, Việt Nam tự hào về một thời đại thơ ca có một không hai trong lịch sử nước nhà. Một thời đại mà Vũ Ngọc Phan đã hãnh diện khi đưa ra nhận định: mười năm của ta bằng mấy mươi năm của người. Vì thế, trong rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả đều đi đến một kết luận: Phong trào thơ mới là một cuộc cách mạng trong thơ ca, mang một quan niệm hoàn toàn mới mẻ, quan niệm về cá nhân, cái tôi biểu hiện với một tinh thần duy lý phương Tây. Thơ mới ra đời đã xóa đi luật lệ xưa cũ cứng nhắc, trên tinh thần đổi mới toàn diện. Thơ mới đã sáng tạo ra những thể thơ mới và cải tạo, nâng cấp các thể thơ truyền thống. Nói đến sự thành công rực rỡ của thơ mới là phải nói đến sự nhiệt thành, tâm huyết, say mê lao động sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sỹ, với mong muốn mang lại diện mạo mới cho nền văn học nước nhà.
          Trong khoảng thời gian ra đời, phát triển và suy thoái của mình, phong trào thơ mới đã tồn tại nhiều trường phái sáng tác: Lãng mạn, tượng trưng, siêu thực, … Với những đại biểu xuất sắc như: Thế Lữ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, LeiBa, … . Trong số đó nhà thơ mới Hàn Mặc Tử được xem là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt nhất trong phong trào thơ mới. Từ Gái quê, Lệ thanh thi tập, Đau thương đến Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội (kịch thơ), Chơi giữa mùa trăng (thơ văn xuôi) chỉ trong vòng từ 1935 – 1940 ông đã làm một cuộc hành trình văn học bằng một thế kỷ, mở đầu là thơ bát cú đường luật và cuối cùng là những bài thơ chứa đựng nhiều yếu tố tượng trưng, siêu thực. Một điều đặc biệt hơn nữa là mỗi tập thơ của ông để lại gắn liền với từng giai đoạn, biến cố của cuộc đời. Với Gái quê mọi thứ đều dịu dàng, mơ mộng, chất phác, trẻ trung thì Đau thương mọi cảm quan trong Gái quê hoàn toàn tan biến bù lại đó là những hồn, máu, trăng, một tâm hồn bị ám ảnh bởi bệnh tật. Đau thương không còn chứa đựng những yếu tố lãng mạn, hồn nhiên như trong Gái quê mà chứa đầy những yếu tố siêu thực, tượng trưng. Đến Xuân như ý, Thượng thanh khí thì hồn thơ của thi sĩ càng ngày càng xa khỏi thế gian và mọi thứ tình tứ của đời thường với một lối thơ bí hiểm khó mà suy nghiệm cho ra nghĩa. Thơ ông bám chặt với cuộc sống trần thế đầy đau khổ, bệnh tật nhưng lại có một sức hút kỳ diệu. Qua các tập thơ, người đọc nhận ra thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới khác thường, đau đớn, quằn quại, khát khao sống với những Hồn – Máu – Trăng. Vì thế, Hồn – Máu – Trăng cứ trở đi trở lại trong thơ ông với một cường độ dày đặc, nó như là biểu tượng cho sự sống còn của sự nghiệp sáng tác của chính thi sĩ. “Hàn Mặc Tử là nhà thơ viết rất nhiều, rất hay và rất say về trăng. Trăng trong thơ ông kỳ ảo, biến hóa vô cùng và có khi như là ý nguyện tha thiết muốn vươn tới cái đẹp, cái hoàn mỹ mà không đạt được” [3, Tr 10]. Đọc thơ ông ta mới thấy được hàng loạt những ý niệm qua hình tượng trăng.
1.2. Khái niệm biểu tượng
          Biểu tượng là một khái niệm đang được đẩy mạnh nghiên cứu trên thế giới bởi nó là một khái niệm chứa đựng nhiều bí ẩn và mang trong bản thân nó cả trường ý nghĩa. Trên thực tế, khái niệm  này là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau.
          Theo Từ điển tâm lý học (Vũ Dũng – NXB Khoa học xã hội - 2000) thì “Biểu tượng là hình ảnh các vật thể, cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tưởng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương lai”
          Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) thì “Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn ghi lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt”
          Biểu tượng là một khái niệm quen thuộc nhưng đây lại là một khái niệm vào loại phức tạp và chưa có sự đồng thuận trong cách hiểu cũng như cách sử dụng. Tổng hợp những thành tựu mĩ học, lý luận văn học Macxit, các soạn giả của cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa Biểu tượng như sau: Theo nghĩa rộng biểu tượng thể hiện “đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật”. Theo nghĩa hẹp thì biểu tượng là “một phương thức chuyển mã của lời nói” đặt bên cạnh ẩn dụ, hoán dụ hoặc là một loại hình nghệ thuật đặc biệt “có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa về con người và cuộc đời”.
          Như vậy, hiểu một cách đơn giản và ngắn gọn thì Biểu tượng là một hình ảnh tượng trưng, có ý nghĩa rộng lớn hơn chính bản thân nó. Mỗi biểu tượng phải khái quát được một phạm vi bao quát rộng lớn những hiện tượng, sự vật trong cuộc sống. Nếu biểu tượng không mang lại cho ta một ý nghĩa rộng hơn “cái biểu đạt” thì nó được coi là những hình ảnh thuần túy mà thôi chứ không được coi là biểu tượng. Hơn nữa, ý nghĩa của biểu tượng phụ thuộc vào biên độ và khả năng sáng tạo của nhà thơ.
          Bàn về biểu tượng thơ Hegel cho rằng : “Biểu tượng nên thơ là một biểu tượng có hình tượng, bởi vì biểu tượng nên thơ không phải phơi bày trước mắt ta bản chất trừu tượng của cái hiện thực cụ thể”. Vì lẽ đó mà trong thơ ca biểu tượng đóng một vai trò hết sức to lớn. Biểu tượng giúp người nghệ sĩ thể hiện một cái gì đó ngoài bản thân nó, lớn hơn ý nghĩa thông thường của nó. Đồng thời, nó mang phong cách độc đáo và dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ.

 1.3. Những biểu tượng ngh thut trong thơ Hàn Mc T
Với quan niệm: Sáng tạo thơ là hành động nhà thơ đi vào trong cõi mơ ước, trong “huyền diệu”, trong “sáng láng” và vượt hẳn ra ngoài cõi “hư linh”. Đó là một thế giới “siêu thần”, một cõi “tiềm thức”, những bờ bến xa lạ của “cảm giác”. Đồng thời, đó còn là “một cõi vô hình cao tột bậc được xây dựng bởi trăng sao”. Và để đến được với cõi thế giới bí ẩn và xa lạ ấy thì không chỉ được cảm nhận bởi giác quan thông thường mà phải thông qua các biểu tượng và sự tương ứng với các giác quan. Vì thế, khi tiếp cận với thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta bắt gặp những hình tượng nổi bật như Hồn – Trăng – Máu. Những biểu tượng này xuất hiện với một cường độ dày đặc và thường xuyên trong suốt hành trình sáng tác của thi sĩ họ Hàn. Trong số đó, Trăng là biểu tượng độc đáo và kỳ dị nhất. Nó được phóng chiếu từ nhiều góc độ và mang một “phong cách” trăng rất riêng, rất khác lạ. Vì thế có người đã từng viết: Trăng, Hồn, Máu không còn là những ý niệm trừu tượng, chúng là những hình hài đầy nhục cảm, những linh hồn đầy đau thương. Không chỉ dừng lại ở ý nghĩa là một cách giãi bày “chân thành” như cách nghĩ thông thường về thơ trữ tình, những hình tượng này là sự “thoát xác”, vượt ra ngoài cái thân thể hạn hẹp, cố định để sống tột cùng trong những cuộc đời khác, những cảm giác khác. Bản thân hồn cũng là một sinh thể, tách biệt với thể xác, là một “kẻ lạ” với thể xác và trong hồn không ngừng chia tách những linh hồn mới. Nếu hồn ứng với tinh thần, thì máu ứng với thể xác con người, với sức nóng và sự sống vượt trội.
Chúng ta biết rằng, hình ảnh trăng là đối tượng được nhiều thi nhân ở mọi thế hệ, mọi thời đại lĩnh hứng, miêu tả dưới nhiều bình diện khác nhau. Ở mỗi nhà thơ trăng mang một vẻ đẹp, một nỗi niềm riêng. Trăng trong thơ Nguyễn Du gợi tình, gợi cảnh. Trăng trong thơ Xuân Diệu đem lại cảm giác bâng khuâng nhẹ nhàng cho người đọc. Còn với trăng trong thơ Hàn Mặc Tử là cả một thế giới đầy bí ẩn, dị thường. Trăng có lúc được ẩn dụ, lúc được nhân hóa làm cho nó mang một phong cách độc đáo và khác lạ, kiểu như:
Trăng nằm sòng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi
                             (Bẽn lẽn)
Bản thân hình ảnh trăng cũng là một biểu tượng đa nghĩa. Xuất phát từ những đặc tính tự nhiên, là thiên thể ban đêm, trăng thường gợi nên hình ảnh của cái đẹp, của ánh sáng trong khoảng không mênh mông tăm tối. Và nó cũng chính là biểu tượng của cái gì đó siêu thoát bên ngoài mà con người không thể vươn tới.
Bên cạnh đó, Hồn cũng là một hình ảnh đầy ấn tượng và kỳ lạ. Hồn trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện với một tần số khá cao (62 lần) và có sức ám ảnh mạnh mẽ. Trong suốt hành trình thơ Hàn Mặc Tử chúng ta thấy biều tượng Hồn xuất hiện như một nỗi ám ảnh đến rợn người, khó nắm bắt. Chính nó cũng đã làm cho thi nhân phải thốt lên:
Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết
Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi
Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười
Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng
Hồn là ai? Là ai? Tôi không hay
Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay
Hồn mệt lả mà tôi thì chết giấc”
(Hồn là ai)
Theo quan điểm của tôn giáo, hồn là một thực thể tinh thần thiêng liêng và là phần quý giá nhất của con người. Khi con người chết đi thì linh hồn sẽ kìa khỏi thân xác và không bao giờ bị phân hủy như thể xác. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài Hồn lìa khỏi xác:
…Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã
Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa
Hồn mất xác hồn sẽ cười nghiêng ngã
Và kêu rên thảm thiết khắp bao la
Ôi! Hồn thiêng không hề chết đặng
Làm sao hồn chẳng hiểu nghĩa vô biên
Ngày tận thế là ngày thôi tán loạn
Xác của hồn, hồn của xác y nguyên
Hồn là biểu tượng của sự sống, nó hội tụ đầy đủ đặc điểm của một con người và là phần không thể thiếu để làm nên con người. Vì thế, nó có mối liên hệ ràng buộc với sinh mệnh. Trong nỗi đau đớn đến tột cùng khi nhà thơ đang cận kề với cái chết, đang phải đối diện với giờ hấp hối sắp chia phôi thi sĩ Hàn đang đón đợi, cầu xin một sự tưởng nhớ rất chân thành:
Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn nuối trong cây
Còn em sao chẳng hay gì cả?
Xin để tang anh đến vạn ngày
(Trút linh hồn)
Xa lìa thể xác, hồn vượt ra ngoài vũ trụ để đi tìm Hương cho thơm ứ đầy hơi khoái lạc, để được Tắm gội ở trong nguồn ánh sángca những điệu ngọc vàng sang sảng:
Hồn hỡi hồn, lên nữa quá thinh gian
Tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực
Hồn hỡi hồn, bay ra ngoài kia mức
Nơi thiên sầu địa thảm giới Lâm Bô
Say máu ngà, say nữa tới chừng mô
Cả vũ trụ tan theo ngày phán xét
Là khủng khiếp cả đất trời tiêu diệt…
                                                                                     (Ngoài vũ trụ)
Nỗi đau khổ vì bệnh tậ dày vò đã hành hạ thân xác thi sĩ nhưng chính nó
lại cung cấp cho nhà thơ một năng lực sáng tạo vô biên.
Với Hàn Mặc Tử, Tôi làm thơ?
Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật …
Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú. Có ai ngăn cản được lòng tôi?
          Chính quan niệm đó đã khơi nguồn cho một biểu tượng khác vốn được xem là khá thành công và độc đáo trong thơ ông – đó chính là biểu tượng máu, động lực thúc đẩy sự sáng tạo.
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
                                             (Rướm máu)
Máu – biểu tượng của sự ám ảnh triền miên, dâng trào tràn ngập cả hồn thơ. Nó cuộn chảy tuôn trào trong thân xác nhà thơ, trong sự đau đớn đến tột cùng đã ngưng tụ lại, đọng thành vũng rồi tan chảy trong sự sáng tạo:
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đương siết
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh
                                                (Rướm máu)
Lời thơ ngậm cứng không rền rỉ
Mà máu tim anh vọt lai láng
(Lưu luyến)
          Chính sự đau đớn, hoảng loạn, tuyệt vọng này đã khiến cho nhà thơ phải thốt lên:
Trời hỡi bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tôi hết được yêu vì
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng cứng tựa si
                                                           (Những giọt lệ)
Máu cũng chính là thứ tinh lực được vắt kiệt để dâng tặng cho thơ, cho đời.
Xinh dâng này máu đang tươi
Này đây nước mắt giọng cười theo nhau
                                                          (Bến Hàn Giang)
Thơ Hàn Mặc Tử chính là những bông hoa nở trong màu huyết:
Lá trên cành héo hắt, gió ngừng ru
Một khối tình nức nở giữa âm u
Một hồn đau rã lần theo hương khói
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi
Một lời run hoi hóp giữa không trung
Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng
Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn

                                                                    (Trường Tương Tư)
Những biểu tượng Trăng, Hồn, Máu là sự tượng hình hoá tình trạng “cả thể xác lẫn linh hồn tan rã” của Hàn Mặc Tử . Hay nói cách khác, đó chính là sự phân rã của bản thể người trong một cảnh ngộ bi đát. Bị “cầm tù” trong những dày vò cùng cực cả về thể xác lẫn tinh thần, sự phân rã này là một tất yếu mang tính bi kịch, nó tô đậm hơn nỗi đau thương của thi sĩ Hàn Mặc Tử, nhưng đồng thời, đó cũng chính là một hành động giải phóng và tự giải phóng. Từ đây, Hàn Mặc Tử có thêm bạn đồng hành, cũng là những phương tiện để soi ngắm thế giới trong một cảm quan và một chiều kích mới.
1.4 Biểu tượng “Trăng” trong thơ Hàn mặc Tử
1.4.1 Trăng – biểu thị nỗi khổ đau cùng tận
          Có thể nói Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử như một “linh vật” rất huyền nhiệm, kỳ lạ. Dưới mắt ông, Trăng là một thực thể có linh hồn. Chừng như ông nghe được hơi thở, bước đi, sự chuyển dịch của bóng trăng. Đồng thời, Trăng như là “người” thấu hiểu tất cả nỗi đau đớn trong lòng thi nhân và cả những tâm tư tình cảm. Trăng như là hình tượng không thể thiếu trong văn học từ xưa tới nay: Trăng như là nhân vật chứng kiến mọi biến động của xã hội, đồng thời còn là nơi để cho con người thổ lộ mọi tâm trạng, mọi nỗi niềm.
          Từ Trăng trong ca dao:
Vầng Trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
          Rồi trăng trong thơ Trung đại:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nữa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
                                      (Truyện kiều – Nguyễn Du)
          Đến thời hiện đại, trăng cũng là một nhân vật không thể thiếu của các nhà văn, nhà thơ. Trăng như là trung tâm điểm để cho các thi sĩ khai thác, đào bới dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Với Xuân Diệu, trăng như một vật chứng chứng kiến tình yêu của hai người:
“Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
Tôi đi với người yêu qua nhè nhẹ…
Im lìm, không dám nói năng chi”
                                      (Trăng)
          Còn với Đoàn Thị Lam Luyến, Trăng được hình tượng hóa như là người tình luôn đồng hành cùng thi nhân.
Đầy vơi con nước vì Trăng đấy
Biển đã duềnh lên, biển bạc đầu
Ai biết mối tình thiên niên kỷ
Ta là Trăng - Biển tự trong nhau
                                      (Trăng và Biển)
          Nhưng với Hàn Mặc Tử thì khác, Trăng trong thơ ông chính là Hồn và Máu của ông. Hàn Mặc Tử đã phải sống trong những cơn đau triền miên khủng khiếp, một nỗi đau rùng rợn đến vô biên. Vì thế nhà thơ muốn:
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm
Cho trăng ngập dần lên tới ngực
                                                (Hồn là ai)
Thơ ông là những dòng đầy máu lệ, đầy tiếng gào thét. Chính “Trăng, ánh trăng đã để lại những cảm giác vật chất lên thân xác Hàn Mặc Tử” [1; Tr 229]. Điều đó cho chúng ta thây, trăng trong thơ ông có tính chất hai mặt: vừa vật chất vừa tinh thần, vừa trần tục lại vừa thiêng liêng. “Hàn Mặc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những tiếng ghê người…” [1; Tr 206]. Nhà thơ đã không thể thoát ra khỏi sự ám ảnh ghê gớm của nó, lúc nó tối tăm, lúc nó chói lòa như hai mặt đối lập của Thiêng đàng và Địa ngục. Trong một Không gian dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng. Rồi Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ/ Đầy mình lốm đốm những hào quang.
          Chính cái sự đau đớn về thể xác, bệnh tật đã khiến cơ thể ông hao gầy, suy nhược nhưng đó lại là dòng suối khơi nguồn cho mọi cảm hứng sáng tạo vô biên. Ở Hàn Mặc Tử, đau thương đồng nghĩa với sáng tạo, nó như là phương tiện để đưa nhà thơ lên đến cung bậc cao nhất của nghệ thuật.
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ
                   (Đà Lạt trăng mơ)
          Trăng như một cái gì đó hữu hình song hành cùng nhà thơ để cho nhà thơ được nuốt, được uống, được ngậm rồi giao hoan cùng nó, hóa thân vào nó:
Gió rít tầng cao trăng ngã ngữa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mữa máu ra
                                      (Say trăng)
Sự đau đớn, dày vò về thể xác bởi căn bệnh quái ác đã có lúc khiến cho nhà thơ không còn nhận thức được sự sáng tạo nghệ thuật của chính mình:  Tôi điên tôi viết như người dại/ Vang lạnh không gian xóa những ngày. Ông quan niệm nhà thơ như một vị “trích tiên” bị đày đọa xuống cõi bơ vơ lạc lõng và phải chịu một thứ “Định mệnh tàn khốc theo riết bên mình”. Và thơ “là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ”. Đã có lúc nhà thơ như một người hoảng loạn, vô ý thức:
Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên
Nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên
                                                                   (Trăng tự tử)
Hay:
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian
       Tuy nhiên chúng ta cần phải biết rằng “điên” ở đây không phải là một trạng thái bệnh lý mà là sự thăng hoa cao độ của sự sáng tạo nghệ thuật. Ở trạng thái đó, con người rơi vào trạng thái xuất thần, vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý trí. Đã có lúc nhà thơ lại đoạn tuyệt với trăng, lạnh lùng rao bán như một vật phẩm có trong tay:
Trăng! Trăng! Trăng! Là trăng, Trăng, Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
                                                (Trăng vàng Trăng ngọc)
          Hình ảnh trăng đã được nhà thơ làm mới đi, mang một phong cách độc đáo và lạ lùng, trăng như một thứ định mệnh gắn kết với nhà thơ. Trăng nhiều lúc lẫn trong máu huyết, lai láng gợi cảm giác ớn lạnh. Trăng thực sự trở thành biểu tượng của một sự thác loạn tâm hồn. Nó chính là biểu tượng của sự đau khổ khi con người uất ức đến tuyệt đỉnh, nó như là vực thẳm đày đọa tâm hồn thi sĩ. Và Máu – Hồn – Trăng chính là hiện thể của đau thương, của nỗi đau khổ trần gian và kiếp người mà thi sĩ phải chịu nhận.
1.4.2 Trăng – biểu thị nỗi cô đơn tuyệt đối
         Hẳn ai cũng biết rằng, thi sĩ trẻ Hàn Mặc Tử đã phải sống một cuộc sống cuối đời đầy đau khổ, cô đơn. Với cái tuổi ngoài đôi mươi mà thi sĩ phải sống cách ly với gia đình, xã hội và ngậm đắng đón chịu những trận dày vò về thể xác của bệnh tật. Đặc biệt là sự tha thiết yêu đương mà phải cách ly với cả người yêu nhưng vẫn một lòng yêu người chung thủy. Đau khổ hơn nữa là đang ở độ tuổi xuân xanh, tràn đầy sức sống mà phải mà phải chịu cảnh không biết sống chết ngày nào, thậm chí giờ phút nào, trong thân hình “tan rữa” vì bệnh tật . Hàn Mặc Tử cảm thấy ghê sợ nỗi cô đơn của một con người bị tách khỏi đồng loại:
                                           Chao ơi! Ghê quá trong tư tưởng
                                           Một vũng cô liêu cũ vạn đời!

Trong cảnh cô đơn tuyệt vọng ấy, nhà thơ khao khát đón nhận những tín hiệu yêu thương cứu giúp của mọi người:
                                          Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả
                                         Trơ vơ buồn và không biết kêu ai...
Hay:
                                         Một mai kia ở bên khe nước ngọc
                                        Với sao sương, anh nằm chết như trăng
                                       Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
                                      Đến hôn anh và rửa vết thương lòng.
                                                                            
(Duyên kỳ ngộ)
Cái  xa cách, nỗi cô đơn, tuyệt vọng đó đã khiến cho nhà thơ phải thốt lên:
Ta đang khao khát tình yêu thương
                                   Cất tiếng kêu vang trong im lặng                                  
Tiếng va vào núi, dội quanh vùng
                                                    (Tiếng vọng)
Và cũng chính hính sự khao khát đó lại càng tạo nên cảm giác bơ vơ, vắng bặt, càng làm cho nhà thơ có cảm giác như đang sống trên một ốc đảo giữa biển vắng đại dương mênh mông:
Từ ấy anh ra đi
Bóng trăng vàng dải cát
Cánh cô nhạn bơ vơ
Liệng dưới trời xanh ngát
Từ ấy anh ra đi
Em gầy hơn vóc liễu
Em buồn như đám mây
Những đêm vừng trăng thiếu
                                            (Nhớ nhung)
Sự cô đơn đó đã đẩy lên đến tột đỉnh biến nỗi cô đơn thành sầu vạn cổ:
Lòng ta sầu thảm hơn mùa lạnh
Hơn hết u buồn của nước mây
Của những tình duyên thương lỡ dở
Của lời rên xiết gió heo may
                                           (Sầu vạn cổ)
Rồi chính trong nỗi lòng tê lạnh thiếu vắng tình đời đó nhà thơ phải tự đối thoại với chính tâm hồn mình, xem đó như là một lẻ sống ở đời của bản thân:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
                                        (Đây thôn Vĩ Dạ)
       Sự cô đơn mà thi sĩ Hàn phải gánh chịu chính là những chuỗi ngày dài đau khổthương khó. Trăng không còn nguyên vẹn tròn trịa, không còn thơ mộng như trong thơ lãng mạn mà trăng đã bị khuyết, bị cắn vỡ:
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi
                                         (Một nửa trăng)
Thi sĩ Hàn đã cố gắng đến cùng để diễn tả chân thực những biểu hiện tinh vi trong thế giới tâm linh của mình nhưng càng đi sâu vào vực thẳm không cùng đó, thi sĩ càng đi xa và tạo nên một sự khác biệt đối với mọi người. Và chính cái sự khác biệt này lại làm nên một phong cách thơ độc đáo, một “hồn thơ dị biệt” Hàn Mặc Tử. Vì thế mà Chế lan Viên đã từng nói: "Tôi có thể cam đoan với các người rằng, tất cả những cái gì tầm thường hiện thời rồi sẽ tan biến hết, và sau này trong tương lai còn lại một cái gì của thế hệ chúng ta đang sống, đó là thơ Hàn Mạc Tử”
1.4.3 Trăng – người bạn tâm giao và nguồn sáng tạo vô biên
          Có thể nói Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử như một người bạn đồng hành với mọi biến cố trong cuộc đời ông. Và chưa bao giờ người ta thấy trong một tập thơ tràn ngập cả ánh trăng như trong thơ Hàn Mặc Tử: Trăng đẹp, Trăng lung linh huyền ảo đi cùng với “Trăng điên”, “Trăng hủi”. Với Hàn Mặc Tử Trăng tồn tại và xuất hiện ở khắp mọi nơi.
“Không gian tràn ngập toàn trăng cả
Tôi cũng Trăng mà nàng cũng Trăng”
(Huyền ảo)
          Hàn Mặc Tử có 5 tập thơ chính thì đã có đến 3 tập nói về Trăng, viết về Trăng. Riêng tập “Thơ điên” có đến 16 bài viết về Trăng, ngạc nhiên hơn nữa là chỉ có một bài thơ Trăng vàng Trăng ngọc có tất cả 15 câu mà có đến 28 lần nhắc đến Trăng. Hay như bài Rượt Trăng có đến 17 từ Trăng thay phiên nhau tỏa rọi trong thơ.
“Trăng bay lả tả ngã lên cành vàng
Tới đây là nơi tôi được gặp nàng
Rủ rê, rủ rê hai đứa tôi vào rừng hoang
Tôi lượm lá trăng lâm chiếu trải”
                                      (Rượt trăng)
          Trăng như một người bạn tri kỷ theo suốt thi sĩ trong mọi quá trình, mọi biến cố. Đặc biệt Trăng như một người bạn tâm giao, người bạn tình về đêm của nhà thơ. Trăng là một thứ ánh sáng vừa của nội tâm, vừa của ngoại giới. Trăng chính là nơi để nhà thơ trút bầu tâm sự, để được “điên” cùng Trăng, để được “hạnh phúc” cùng trăng
“Lạnh quá ánh trăng không sáng mấy
Cho nên muôn dặm ở ngoài kia
Em đang mong mỏi, em đang nhớ
Bứt rứt lòng em muốn trở về”
                                      (Thao thức)
          Bên cạnh Trăng là người bạn tâm giao với những vẽ đẹp lung linh thì Trăng còn có những “hành động” lạ:

“Lá đổ sào sào
Trăng vào xôn xao
Chuỗi cười ha hả
Trên cánh đồi cao”
                             (Chuỗi cười)
          Hay:
“Ánh trăng mỏng quá không che nỗi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ”
                                 (Huyền ảo)
          Rồi:
Trăng đang nằm trên sóng cỏ
Cỏ đùa trăng đến bên ao
Trăng lại đẫm mình xuống nước
Trăng nước đều lặng nhìn nhau
                           (Bắt chước)
Bên cạnh đó, Trăng còn được miêu tả như là người bạn tri kỷ, tâm giao, có cảm xúc, biết tâm tình, chia sẻ, biết “lã lơi”, biết gào thét:
“Ta gặp nàng Trăng ở suối Trăng
Nỗi lòng ta mở lẹ như Trăng
Sáng trưng sáng cả vùng tiên động
Ta ngắm hồn ta sang trẻ măng”
                             (Chơi trên Trăng)
          Trăng còn có sự “Lã lơi”, một hành động gợi tình “rất người”
“Trăng nằm sòng soãi trên cành liễu
Đội gió đông về để lã lơi”
                                      (Bẽn lẽn)
          Rồi Trăng uốn mình như thiếu nữ, quỳ sấp mặt theo dáng liễu như đang gợi tình:
“Bỗng đêm nay trước cửa bóng Trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”
                                                                             (Hãy nhập hồn em)
          Bên cạnh đó, trăng còn là nguồn cảm hứng sáng tạo vô biên, là nguồn cội của tuổi thơ. Đối với Hàn Mặc Tử, ngay từ thủa nhỏ, trăng đã thoát khỏi tất cả những ý nghĩa thông thường mà chúng ta thường  gán cho vầng trăng, ánh nguyệt. Trăng trở thành thơ, trăng trở thành nhạc. Trăng là thơ và là nhạc ở thi sĩ Hàn đã có  ngay từ những suy nghĩ đầu tiên của tuổi thơ. Và khi lớn lên, trăng sẽ là chia ly, đau khổ, là cõi siêu hình, là sự rung động tận cùng trong mọi tạo tác.
Trong bài thơ văn xuôi Chơi giữa mùa trăng có thể coi là bản tuyên ngôn thơ của Hàn Mạc Tử, thi sĩ coi trăng như một thực thể sáng tạo :“Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều tiếng nhạc say say gió xé rách lả tả... Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động. Nghiã là trăng rằm trung thu : một đêm siêu hình vô lượng, tượng trưng của một mùa ao ước xây bằng châu lệ, làm bằng chia ly, và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái lạc chán chê”
    Như vậy chúng ta thấy, Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử như một nhân vật không thể thiếu để tạo ra câu chuyện, để thổ lộ tâm tình. Trăng hóa người rồi đến người hóa Trăng, tất cả không ngoài mục đích tạo nền tảng cho thi sĩ trút bỏ nỗi lòng mình. Trăng có đủ ngoại hình, có đủ đặc điểm, tính cách như một nhân vật. Đồng thời “Trăng cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng trơ tráo và náo nức dục tình” (1; tr 206). Và trăng còn là người bạn khơi nguồn sáng tạo những vần thơ vô biên cho chính nhà thơ.
1.5 Kết luận
    Với một thời gian ngắn hoạt động trên văn đàn, Hàn Mặc Tử đã chuyển từ cổ điển, lãng mạn sang tượng trưng, siêu thực, góp một phần quan trọng vào quá trình hiện đại hóa thi ca nước nhà. Thơ Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng đậm nét của ông tổ trường phái tượng trưng Bauderlaire. Vì thế khi đọc thơ ông người đọc như bị hòa lẫn vào những trạng thái cảm xúc tột cùng, như bị lạc vào một thế giới mơ hồ, huyền ảo, nửa hư nửa thực không phân định cùng với một lối thơ Không rên siết là thơ vô nghĩa lý. Trong thế giới thơ  ấy cái tôi thi nhân rã rời thành muôn mảnh Trăng – Hồn – Máu và chính nó đã trở thành biểu tượng nghệ thuật thường trực, bất biến trong thơ thi sĩ Hàn.
         


                                   TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.     Hoài Thanh, Hoài Chân (2008), Thi nhân Việt Nam, Nhà Xuất bản Văn hóa.
2.     Phan Ngọc (2003), Hồn thơ thế kỷ, Nhà Xuất bản Văn hóa.
3.     Mã Giang Lân (2005), Văn học hiện đại Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo dục.
4.     Hàn Mặc Tử tác phẩm và lời bình (2007), Nhà Xuất bản Văn học

5.     Tuyển tập mười năm tạp chí và tuổi trẻ (2004), Nhà Xuất bản Giáo dục.