Ngô Minh – nhà thơ của
biển đảo quê hương
Hẳn ai đã từng đọc thơ Ngô Minh sẽ không thể quên những miền “cát trắng
tinh”, từng lớp sóng vỗ ru hay những cảnh tượng biển với đủ kiểu trạng thái lúc
dữ dằn ghê rợn, lúc lãng mạn trữ tình, lúc đau thương tột cùng cũng có lúc đằm
thắm chất chứa yêu thương đã dệt nên một hồn thơ tha thiết với quê hương, với
biển đảo mà như ông đã từng ao ước: “Những câu thơ như vỏ sò vỏ ốc/ Với mênh
mông tiếng biển trong lòng”.
Có
thể nói, hành trình thơ ông là hành trình tiếng thơ hòa vào với tiếng biển ru
mỗi ngày, là hành trình tiếng lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của một
người lính trở về sau bao năm trên chiến trường. Dù xuất hiện khá muộn trên thi
đàn so với bạn bè trang lứa nhưng thơ ông đã khẳng định được vị trí và sức vang
trong dòng chảy văn học Việt hiện đại. Trên chặng đường sáng tạo, ông đã dành
tâm huyết rất nhiều cho những vần thơ về biển đảo. Có thể nói, biển đảo là hình
ảnh không thể thiếu trong mỗi dòng thơ của ông. Hành trình từ tập “Chân
sóng”, “Quà tặng xứ mưa:, “Đứa con của cát, “Phù sa biển”, “Huyền thoại Cửa
Tùng” cho đến “Kí tự biển”,… biển đi vào thơ một cách tự nhiên và ở
lại sâu lắng trong lòng người. Biển trong thơ ông không còn là một hình ảnh của
đời thực tự nhiên mà nó đã trở thành một nhân vật với bao nỗi niềm lắng đọng và
một tình yêu gần gũi, bao la, chân thành như chính lòng mẹ vỗ về, ôm ấp. Đến
với những vần thơ chan chứa tình với biển đảo là do “sự hợp tác của cơ duyên”
hay là chính nội tại trong lòng tác giả, tất cả đều lí giải cho một hồn thơ đầy
nhiệt huyết và sục sôi lòng yêu nước. Ai cũng biết rằng ông sinh ra ở làng
Thượng Luật, xã Ngư Thủy Trung, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, là nơi mà như
tác giả đã tâm sự: “Từ thửa mẹ
đẻ rơi tôi bên bờ chân sóng, trong tôi biển đảo Việt Nam là hoàn
thiện, giống như làng tôi vậy. Tập thơ nào tôi cũng có nhiều bài thơ
về biển, có tập toàn về biển…”, là “cội nguồn cảm xúc thi ca đời tôi. Bởi thế trong thơ tôi
có nắng cát biển muối Quảng Bình, lại có hạt hồ tiêu cay nồng…”. Bên cạnh cái
“cơ duyên” tự nhiên đó, yêu biển đảo còn xuất phát từ những năm tháng tham gia
quân ngũ, chính những năm tháng tôi luyện trên chiến trường đã thổi thêm và hun
đúc cho ông lòng yêu quê hương đất nước vốn đã có nền tảng ngay từ ông còn nhỏ.
Vì thế, nếu ai chưa hiểu được hoàn cảnh trước đây của chính tác giả thì không
thể hiểu được lòng yêu nước của ông trung thành và tuyệt đối đến chừng nào.
Hành trình về
với biển, nhà thơ như về lại về chính ngôi nhà, ngôi làng của mình – nơi chôn
giữ bao kí ức ngọt ngào và lưu luyến nhất: “Ta
về uống câu buồn đời mẹ đời cha/ từ xửa từ xưa truyền qua tao võng/ nhận ra bao
điều mới mẻ trong ta/ về cúi mặt soi vào từng hạt cát/ gặp ảnh hình sáng láng
giữa phong ba” (Truyền thuyết làng
chân sóng). Không những thế, trở về với biển còn chính là sự trở về
với cội nguồn dân tộc, trở lại nơi ta
được sinh ra và mãi mãi khắc ghi dấu ấn cội nguồn:
Biển là mộ, làng ơi, con nhớ
tháng
Bảy sóng nhảy qua bờ
tháng
Bảy giỗ mạ, giỗ dì Quế và giỗ Biển
con lại
về cúng biển
hóa vàng
thơ...
(Mộ biển)
Đó còn
là nơi thiêng liêng để khi quy tiên con người ta lại hướng về và nơi đó như là
nơi gần gũi, thân thuộc như những cánh đồng, ngôi làng, thân yêu mà ta từng sở
tại một thời :
mộ ông nội ta nằm quay ra hướng biển
mộ bà
nội ta nằm quay ra hướng biển
mộ ba ta nằm quay ra hướng biển
mộ mạ ta nằm quay ra hướng biển
đời nội ngư trường Hoàng Sa như cánh
đồng làng
đời ba ngư trường Trường Sa như cánh
đồng làng
(Thức với làng biển Thượng Luật)
Chính vì thế, biển đảo quê hương luôn là tiếng
mời gọi thôi thúc trong lòng tác giả “Quê
hương ơi/ Cửa Tùng Vĩnh Quang Cát Sơn Thủy Bạn/ gió lạnh bên này bên ấy tìm
chăn/ dòng sông hẹp chỉ còn bước nhảy/ người tìm sang và cát tìm sang/ hai mươi
năm sông thành máu chảy/ biển lập lòe lửa nhang sớm tối” (Mộ biển). Biển là nơi hội tụ mọi nguồn
thi hứng cho tác giả, là niềm tự hào trước hết thảy vạn vật và với các cường
quốc trên thế giới về một đất nước có đường ven biển trải dài từ Bắc xuống Nam:
“Đây tuổi trẻ của ta/ đây tình yêu của
ta/ kìa nhánh san hô tận cùng đáy cát/ lắc lư sắc biển chói lòa…” (Phù sa
biển). Chính sự kiêu hãnh về một vị thế khá độc đáo đó của bờ biển Việt Nam , nhà thơ
Ngô Minh lại có thêm điều kiện để khởi thảo nên một vùng biển với bao lớp lang
tầng nghĩa ẩn kín về một không phận không tách rời với đất liền. Dưới con mắt
nhà thơ, biển hiện lên với bao suy tư, nỗi niềm như một chứng nhân lịch sử đầy
trải nghiệm, đầy đau thương, mất mát nhưng cũng đầy niềm tự hào về sự oanh liệt
và kiên cường, bất khuất, biển đồng hành cùng người dân chiến đấu:
“Tất cả ngư dân vùng
biển Vĩnh Linh ban ngày bắn máy bay, ban đêm họ lại đẩy thuyền ra biển, vận tải
tiếp tế sung đạn, lương thực, thuốc men, quần áo, gạo cơm và cả những bài hát
ra đảo Cồn Cỏ phục vụ chiến sĩ ta đánh giặc. thuyền vận tải là thuyền vỏ trấu
huyền thoại được đóng bằng gỗ…Đảo Cồn Cỏ là trái tim biển. Để cô lập Cồn Cỏ anh
hùng, giặc Mỹ thường xuyên đánh phá, ngăn chặn con đường tiếp tế dân gian bền
bỉ này…Nhiều người trong số họ đã hi sinh trên đường ra đảo hoặc từ đảo trở về,
nhiều người họ bị địch bắt, bị mất tích vì thuyền chìm…Tất cả họ đã trở thành
muối mặn, thành gió nắng Cửa Tùng” (Mộ biển)
Một điều dễ nhận thấy trong thơ là ông luôn tái hiện
được những trận đánh qua hình ảnh người lính biển cầm chắc tay súng bảo vệ vùng
trời của tổ quốc và qua ý chí sôi sục “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của
quân và dân ta:
Các chiến sĩ cảnh sát biển, kiểm ngư Việt Nam ơi
Giặc đã đâm dao vào cơ thể Tổ Quốc
90 triệu người Việt Nam hóa 90 triệu cọc Bạch Đằng
90 triệu người thành 90 triệu Dã Tượng, Yết Kiêu
Biển Đông dậy song
(Thơ tặng chiến sĩ Cảnh sát biển và Kiểm ngư Việt Nam đang chiến
đấu ở Hoàng Sa)
Cũng từ đó, biển là nơi các anh
tựa lưng khi về với đất mẹ sau tháng ngày canh giữ, chiến đấu với kẻ thù muốn
chiếm đóng tấc biển Việt Nam :
“Hải đội Hoàng Sa xưa hi sinh vì Tổ Quốc/
Thắp cho linh hồn 74 chiến sĩ giữ đảo năm
1974”
(Nắm cát Hoàng Sa). Biển là nơi
lưu dấu hình ảnh những con người kiên trung hi sinh vì Tổ quốc, vì nền hòa bình
và lãnh hải bất khả xâm phạm:
Làng ơi
Bên trái ta là eo Tàu Đồng, bên phải là xóm
Tàu Sắt
Những con tàu xâm lăng bỏ xác một thời
Chị dâu ta trung đội trưởng pháo tầm xa 85 ly
Bạn gái ta mười đứa là pháo thủ
Năm lần bắn cháy tàu chiến Mỹ
“Xê gái pháo binh Ngư Thủy” hóa tượng đài
Vĩnh
hằng trước biển
(Thức với làng biển Thượng Luật)
Chính những điều đó đã hình thành nên
một cảm quan về biển hoàn toàn khác biệt trong thơ ông so với những nhà thơ
cùng hướng ngòi bút về biển đảo. Những suy tư về biển, những mất mát không nhìn
thấy thi thể và cả những “Tiếng sóng
không vọng lên từ biển mà từ muôn tầng đất, từ tâm thức con người hai mươi bảy
năm sau cuộc chiến, là tôi, về gối đầu lên ngổn ngang ký ức ngay nơi rốn của
lịch sử đất nước, đời mình” đã hình thành nên một tứ thơ chất chứa nỗi niềm
về biển đảo quê hương. Cùng viết về biển nhưng ở nhà thơ Ngô Minh, biển vượt ra
ngoài khung nghĩa thông thường và mang
một tinh thần rộng lớn nhân văn hơn. Biển trong thơ ông không những đẹp ở cái
cảnh tự nhiên mà còn mang vẻ đẹp lắng đọng trong hồn người, biển chính là lòng
mẹ ôm ấp, vỗ về, soi chiếu bước đường con đi và cũng là nơi gọi mời con trở về
trên suốt hành trình dài đầy thử thách, khắc nghiệt của cuộc đời. Điều đặc
biệt, biển còn là ngôi mộ lớn, là ngôi mộ chung của dân làng chứ không riêng gì
là mộ của những chiến sĩ giữ đảo cách riêng: “Mộ cả làng tôi bên
biển/ Biển cũng là ngôi mộ lớn, làng ơi”.
Vì thế “những ánh mắt tắt đỏ đêm Cửa Tùng
như những linh hồn ấy cứ hút tôi tới gần/ Ôi, biển ơi, cát ơi, Người không ngủ,
những đốm lửa cháy tự bao giờ…/ Ồ, những nấm mộ biển, những chum hoa muống biển
và những que nhang…” luôn hiển hiện trong chính suy nghĩ của nhà thơ. Chính
những con người một đi không trở về đã chọn biển làm nơi nương náu sau hết, xem
lòng biển như chính lòng mẹ đón con về sau những tháng ngày gian lao trên cõi
trần lại là nơi hẹn ước cho lời thề còn bỏ ngõ: “Ra với biển là đến với anh/ là ra với tình yêu bất tử/ thắp nhang cho
anh thắp nhang cầu nguyện biển/ biển ơi, biển mãi ắp đầy”. Nhớ thương, sầu
tủi muốn chia sẻ với người cùng chung chăn gối không “giấy báo tử” nhưng không
có người trở về nhưng người đàn bà vẫn lặng lẽ thắp nhang khấn vái trước “biển đêm vẫn rì rào bí ẩn và lấp lánh như
ánh mắt anh cười lúc vác mái chèo chào tạm biệt vợ con. Biển không hề thiếu
vắng điều gì, vẫn mặn vẫn sâu trong kí ức của chị” (Mộ biển).
Không dừng lại ở đó, biển trong thơ ông còn
mang nét nghĩa ngợi ca sự giàu đẹp và trù phú. Càng về với biển, càng đi sâu
vào lòng biển ta mới thấy hết dư vị của nó. Biển không chỉ mang lại đời sống
tinh thần hay tạo nguồn thi hứng mà biển còn là một kho lương thực dự trữ giàu
có của quốc gia, dân tộc. Biển mang lại những thực phẩm cốt yếu cho đời sống
của con người. Vì thế, Ngô Minh không khỏi ngần ngại khi viết “cơm áo, bài ca/ tôi cất dành trong biển”.
Hay “Biển như mâm cơm/ Đảo là bát úp/ Biển là làng/ Đảo ngoài khơi dang
tay che chắn ( Ký tự biển). Chính vì thế, biển
giữ một vai trò hết sức quan trọng “giọt máu là giọt biển/ giọt mồ hôi là giọt
biển”.
Có thể nói rằng, viết về biển nhà thơ Ngô
Minh đã hòa hồn mình vào với biển để “đi
tìm lại chính mình…đi tìm lại tình yêu như lửa/ nguồn đất sâu sinh ngọn gió mát
lành” một thời vóc dáng đánh Mỹ với quyết tâm rũ bỏ những ớn hèn. Chính
những “ngôi mộ vừa đắp gió khỏa bằng”, những đau thương, mất mát đã ngấm vào cơ
thể như một vi chất không thể thiếu trong chính sự tồn tại của mình và được bộc
phát qua những dòng thơ đầy cảm nghiệm về nỗi đau thương mà biển phải gánh lấy.
Từ đó làm dậy lên những dòng thơ đầy trăn trở của một thi sĩ yêu nước chân
thành, tuyệt đối: “chẳng làm được gì cho
cuộc đời đổi khác/ chẳng làm được gì cho biển bớt đau thương…”.
-
Bùi Ánh –
Tài liệu tham khảo
1. Tập thơ Chân sóng, NXB Hội nhà văn, 1995
2. Tập thơ Đứa con của cát, Sở văn hóa thông tin
Quảng Bình, 1998
3. Tập thơ Phù sa biển, NXB Thuận Hóa, 2001
4. Tập thơ Huyền thoại Cửa Tùng, NXB Thuận Hóa,
2004
5. Tập thơ Ký tự biển, Bản thảo