Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

[Tuyển chọn nhạc] Tình khúc Trịnh Công Sơn sau 1975


Phần lớn các ca khúc tạo nên tên tuổi Trịnh Công Sơn đều được ông viết từ trước 1975. Dù tình khúc Trịnh Công Sơn ở thời kỳ này được khá nhiều người yêu thích, nhưng dấu ấn đậm nét mà ông tạo nên lại chủ yếu nằm ở chùm ca khúc da vàng.

Sau 1975, trường liên tưởng trong tình khúc Trịnh Công Sơn nói riêng và trong ca khúc của ông nói chung, bớt tính siêu hình, bớt tượng trưng, bớt triết lý, bớt quạnh hiu và dường như "đời thường" hơn. Nỗi buồn ở đó ít đi cái vẻ lành lạnh của cõi âm, của mộng mị, và thêm vào sự nồng nàn của cõi dương, của thực tế.

Có lẽ vì thế mà Khánh Ly không phải là người thể hiện thành công nhất ca khúc Trịnh Công Sơn giai đoạn sau 1975, và cũng không có ai trong Trịnh Vĩnh Trinh, Cẩm Vân, Hồng Nhung, Quang Dũng... chiếm ưu thế khi hát chúng. Mỗi người chỉ thành công với một vài bài, rồi thì đôi khi, có người vốn ít khi hát nhạc Trịnh bỗng nhiên lại xuất thần với một ca khúc nào đó của ông.

Các ca sĩ nghiệp dư như Thanh Hải, Thái Hoà, Giang Trang và tiếng ca của một vài người hâm mộ khác, cũng tỏ ra có duyên với tình khúc Trịnh sau 1975 hơn là với những bài mà họ đã nghe Khánh Ly hát đến nát cả băng, đĩa.

 
Giang Trang hát nhạc Trịnh

Tuyển chọn gồm 14 ca khúc được đánh số thứ tự theo thời gian sáng tác và chọn lựa dựa theo một số tiêu chí chủ quan như: ca từ và nhạc hay, ca sĩ thể hiện có hồn hoặc có gì đó đặc biệt liên quan đến ca khúc cũng như người trình bày.

Lối hoà âm cùng phần hát bè của Jennifer trong "Em còn nhớ hay em đã quên" do Thái Hoà thể hiện làm người nghe dễ liên tưởng đến Sài Gòn thoáng đãng, mênh mang với những con kênh, dòng sông. "Vườn xưa", "Chuyện đoá quỳnh hương" được chọn với cùng lý do là hoà âm hay.

Người nghe đã quá quen thuộc với "Nhớ mùa thu Hà Nội" qua giọng Hồng Nhung; Ái Mi (con gái Ái Xuân, cháu Ái Vân) hát cũng khá dễ thương bằng chất giọng dân ca. Câu "Nhớ đến một người, để nhớ mọi người" có một thời bị cấm hát.

Tình yêu đơn phương của Trịnh Công Sơn dành cho Hoàng Lan, có lẽ là nguồn cảm hứng cho ông sáng tác "Trong nỗi đau tình cờ", "Hoa vàng mấy độ", "Như một lời chia tay". Toàn Nguyễn hát "Như một lời chia tay" là chủ quán cafe "Hà Nội & tôi" trên đường Trần Cao Vân, Sài Gòn.

Sau 1975, Trịnh Công Sơn viết nhạc cho khá nhiều phim. "Vẫn có em bên đời" (phim "Pho tượng", kịch bản Nguyễn Quang Sáng) nói về tình cảm đẹp của cô quân y miền Bắc dành cho một anh tù binh VNCH vốn là nhà điêu khắc; Giang Trang hát bài này cảm động. "Lặng lẽ nơi này" (phim "Tình xa", Lê Vân diễn vai chính) lại kể về nỗi đau, sự trống trải của một cô gái sau khi người yêu sai lời hẹn ước và vượt biên; bản thu Mỹ Hạnh hát tại DDVN14.

"Ơ bai", tiếng nói của một dân tộc thiểu số miền núi tỉnh Lâm Đồng, có nghĩa là "Không được đâu". "Ru tình" là ca khúc mà Trịnh Công Sơn dành tặng cho một nữ ca sĩ người Nhật bị tai nạn giao thông. Mai Trang hát "Cho đời chút ơn" là cô sinh viên ĐH Kinh tế, ca khúc nói về lòng biết ơn của ông Trịnh với những giai nhân.

Năm 1981, cố ca sĩ Ngọc Tân cùng vợ vượt biên, tàu gặp bão, vợ ông bỏ mạng tại vùng biển Hà Tĩnh. Đó có lẽ là lý do vì sao Ngọc Tân hát những ca khúc về biển rất tình cảm, "Sóng về đâu" là một trong số đó.

"Chiếc lá thu phai" là ca khúc duy nhất nói về thân phận trong tuyển chọn.

Download:

Toàn bộ tuyển chọn: Mediafire | Box.net

01. Em còn nhớ hay em đã quên (1980) - Thái Hoà
02. Trong nỗi đau tình cờ (1981) - Giang Trang
03. Chuyện đoá quỳnh hương (1982) - Hồ Quỳnh Hương
04. Chiếc lá thu phai (1983) - Trịnh Công Sơn
05. Hoa vàng mấy độ (1984) - Hồng Hạnh
06. Như một lời chia tay (<1991) - Toàn Nguyễn
07. Nhớ mùa thu Hà Nội (1984) - Ái Mi
08. Vẫn có em bên đời (1986) - Giang Trang
09. Lặng lẽ nơi này (1987) - Mỹ Hạnh
10. Tình khúc Ơ Bai (1992) - Trịnh Vĩnh Trinh
11. Cho đời chút ơn (<1993) - Mai Trang
12. Vườn xưa (<1993) - Thái Hoà
13. Ru tình (1993) - Trần Thái Hoà
14. Sóng về đâu (1995) - Ngọc Tân

Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2014

          1/2

Anh thấy đấy cuộc đời không như mong đợi
Đem yêu thương rồi lại lấy đi
Cho chân tình nhưng chỉ một nửa
Đã qua rồi một nửa của yêu thương
Anh đã đi cho mùa hạ dần qua
Trong nỗi nhớ chỉ còn đó hư vô
Của bất giác kí ức chợt thoáng đến
Đem ngọt ngào pha lẫn mật đắng nua
Anh lại về mang thêm cả đắn đo
Một bên người, một bên em bỏ ngõ…

                 HT, 09/ 4/ 2014

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2014

Lặng
Trời sang đông chưa anh
Mà lòng em buốt giá
Chới với một góc trời
Trong khoảng lặng hư thinh
Đường vắng bước chân anh
Em tìm mãi nơi anh
Chút tình vương mùi nắng
Mùa hoa cải sắp qua
Gồng trổ lên vàng rộ
Em mang về ém muối
Gặm cho qua tháng ngày
Tiễn mùa giá chưa qua
Lòng càng thêm tê tái
Trời vẫn xanh và trong
Như anh say hoa mới
                                                                            18.8.2014


Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2014


Khoảng cách nào có giữa đời thường và, văn chương Đào Hiếu?
(08/06/2014 01:18 PM) (Xem: 97)
Tác giả : Du Tử Lê

Với vốn sống phong phú, nếu không muốn nói là “ngoại khổ”, óc nhận xét tinh tế, kinh nghiệm “trận-địa-chiến” tiểu thuyết của Đào Hiếu, tôi nghĩ ông là một trong rất ít nhà văn hàng đầu ở lãnh vực hiện-thực-xã-hội. Hư cấu nếu có trong truyện của ông, chỉ tựa “làm duyên” cùng, chữ nghĩa chỉn chu mà thôi.


Nhà văn Đào Hiếu (Hình Triết Trần)

Mấy yếu tố căn bản vừa kể, vốn là điểm mạnh của họ Đào trong thể loại truyện dài, một lần nữa, lại xuất hiện “hoành tráng” trong tác phẩm “Khói trắng thiên đàng”, dầy trên, dưới 250 trang.Khác hơn truyện dài “Bù Khú Tiên Sinh” xây dựng trên những mảng sương mù ký ức nhà sàn và, sự chập trờn lửa rừng thực / ảo, ở tác phẩm mới này, Đào Hiếu ném người đọc vào giữa tâm bão của những mặt xã hội kín, khuất. Đó là câu chuyện của một người con gái 16 tuổi, từ vai trò tiếp viên café, trở thành “cao thủ” của một đường giây phân phối ma túy, loại mới nhất Methamphétamine - - Sau khi vô tình rơi vào cõi “thiên la địa võng”. Những cánh tay xúc-tu của loài bạch tuộc đen, đã đưa một cô gái quê, nổi trôi từ tầng địa ngục này, qua tầng địa ngục khác. Cái may mắn duy nhất của cô gái-ma-túy này là, cô gặp, nhận được chân tình của một người đàn ông lớn tuổi…
Truyện dài “Khói trắng thiên đàng” của Đào Hiếu, với tôi, không chỉ là sản phẩm lao động trí tuệ, với những thông điệp báo động, cháy bỏng khẩn thiết của một nhà văn, trước những vấn nạn vây khổn xã hội - - (Mà), nó còn như một thứ tự sự kể, một hồi ký (hành trình sống) khốc liệt của cô gái quê, và, của những người đồng cảnh ngộ.
Vì truyện dài “Khói trắng thiên đàng” (KTTĐ) là một hồi ký, một tự sự kể, cho nên, vẫn theo tôi, tự thân đã là cả một khối thuốc nổ hiện thực cực mạnh, khiến nó không cần phải có những cao trào, những nút thắt, nút mở hay, những cố gắng đào xới tâm lý hoặc, khai thác bản năng tình dục của con người để lôi cuốn người đọc. Bởi tính cao trào, sức công phá đã tiềm ẩn trong từng con chữ…
Hơn thế, để giảm bớt tính “sát thương” của khối chất nổ, đôi chỗ, tác giả đã dùng tới sở trường trào phúng, (riễu cợt ngay cả chính mình), cũng như bản chất thi sĩ của ông, hầu giúp người đọc có được đôi chút thư giãn cần thiết. Thí dụ:
“Em bước vào làm bóng tối hỗn loạn
Xô đẩy tan tác
Đêm rách nát sau tiếng nổ của gót hài
Những ánh đèn tự chọc vào mắt mình
Đứt bóng.
Trăng rớt xuống sân vỡ như gương soi
Máu nguyệt động chảy đen trần gian…”

(Trích chương 4, KTTĐ)
Cũng vì tính ngồn ngộn dữ kiện sống tiếp thu được từ “hiện trường”, nên những chương đoạn trong KTTĐ là một bộ phim chuyển động mau. Những cắt lát dứt khoát, quyết liệt, khiến người đọc khó rời khỏi trang sách.
Tôi muốn nói, ngoài trải nghiệm hiện thực, tài hoa của Đào Hiếu, còn san bằng, xóa sạch khoảng cách giữa tiểu thuyết và đời thường.
Bên cạnh đó, qua từng con chữ, người đọc cũng gặp được không ít những liên-ảnh bất ngờ, mới mẻ (tới đắng lòng), đôi chỗ lại đậm đặc chất thi ca. Ở phương diện kỹ thuật này, tôi nghĩ, Đào Hiếu đã là một thi sĩ, nhiều hơn một nhà văn.
Thí dụ, ngay từ khởi truyện, Đào Hiếu đã so sánh nhân vật nữ của ông với một con khỉ nhỏ. Một con khỉ nhỏ lí lắt, tinh ranh, với bản năng đôi khi ngây ngô, khờ khạo, như nhân vật nữ (như chính ông?) cũng lý lắt, tinh ranh (và đôi khi cũng ngây ngô, khờ khạo do bản chất).
Tôi rất thích những ý tưởng, hình ảnh rất thơ, khá nhiều trong KTTĐ của họ Đào. Như:
“…Ông cầm cuốn sách lên tay, mở ra. Cơn gió từ những trang sách thổi vào mặt. Những dòng chữ ùa ra, bay quanh ông như đàn chim. Đó là tập thơ đầu tay của ông: mới mẻ, trong trắng, nhưng vẫn còn bí ẩn như một thế giới chưa được biết đến…” (Trích chương 3, KTTĐ)
Hoặc:
“…Bụi và lá bần khô cùng bốc lên. Rừng bần rào rạt như sóng. Gió lướt trên những tán lá xanh um, hoa bần bay lả tả và những trái bần đong đưa rập rềnh, trôi dạt. Gió chạy trên ngọn cây như sóng lướt trên mặt biển xôn xao, nắng chiều đọng trên vòm lá…” (Trích chương 11, KTTĐ)
Hoặc:
“…Trong căn phòng im lặng giữa một xóm lao động nghèo nàn, tiếng khóc của ông như tiếng giun dế luẩn quẩn giữa bốn bức vách ẩm mốc. Ông nghe rất rõ và ngạc nhiên thấy như đó là tiếng khóc của một người nào khác vô tình, vừa đến chia sẻ cùng ông…” (Trích chương 14, KTTĐ)
Hoặc nữa:
“…Lúc ấy trái bần chín trĩu cả những vạt rừng. Mùi thơm của nó làm ngây ngất những cơn gió. Con sóc nhỏ không còn hái trái cho người cha mà hái tặng ông. Nó chuyền cành lanh lẹ, dẫn dụ ông đi lạc vào một cõi trời đất nồng nàn thứ mùi ngai ngái của vỏ cây lên men…” (Trích chương 21, KTTĐ)
Trong rất nhiều trang văn của mình, Đào Hiếu cũng đem lại cho người đọc những xúc động tự nhiên, khi ông viết về những cái chết của một số sinh vật, có nghiệp duyên với ông từ thời niên thiếu và, cái chết của chúng…đã sống lại, vì cái chết của con chó nhỏ, người bạn trung thành của cô-gái-ma-túy…
Cái chết, “khung cửa hẹp” của bất cứ một sinh vật hữu tình nào, dù là con người hay con vật; bên cạnh những tình bạn giữa hai người tù nữ, cùng cảnh ngộ.
Tôi muốn gọi đó là những dòng chữ chói lọi tình yêu và, tinh ròng tình bạn, của những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Tựa đó là những sinh vật ngoài hành tinh. Nhưng tình người nơi họ, lại là một thứ gì giống như xa xỉ và, xa lại với những sinh vật vô cảm, được gọi là con người nhởn nhơ giữa xã hội.
Tuy (hay nhờ) sống cạn kiệt thân, tâm với những “cái chết trắng”, với những kẻ trộm chó, với những “diệu thủ” trộm cắp, tiêu thụ đồ, xe ăn cắp, thậm chí sát nhân,…họ Đào vẫn không quên cho thấy, ở cái thế giới bạo lực hoang dã kia, thấp thoáng đâu đó, vẫn là những bảo bọc, chia sẻ của những kẻ đạo tặc. Phải chăng, tác giả muốn nhấn mạnh, giữa khi đạo lý nhân quần ngày một phá sản, thì đám người sống bên lề xã hội, trong chừng mực nào đó, vẫn có cho riêng họ một thứ đạo lý: “Đạo lý giang hồ”?!?
Trên tất cả mọi trải nghiệm, sống trong và, sống giữa tâm-bão- đen hiện thực xã hội, tôi vẫn thấy cái Tâm-Nhân-Bản (tôi viết hoa ba chữ “Tâm-Nhân-Bản) của ông.
Theo tôi, chính ngọn lửa nhân bản rực rỡ nơi họ Đào, đã làm thành nhân cách nhà văn, qua từng trang sách của ông.
Từ đấy, tôi không nghĩ, có dễ chúng ta còn thấy phải đòi hỏi thêm điều gì, nơi nhà văn đã sống, như một đường gươm này!
Du Tử Lê,
(California, Aug. 2014)

Thứ Năm, 14 tháng 8, 2014

NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU

Nửa hồn thương đau...nửa hồn chấp bút
Nửa đời sương gió bạt phương nao
Cho đi một chút để rồi tâm vướng mãi
Vò võ đau đáu nỗi hận chuốc dại khờ
Để cho tháng ngày xao xuyến mãi không vui
Khoảng cách xa ta hãy cho xa mãi
Để ngày tàn cảm xúc cũng tan theo
Cho ta quên thả hồn theo điệu gió
Cho thoáng ngợp giữa mênh mông đồng nội
Cho quá khứ chôn vùi khoảng hố sâu
Cho anh mãi chảy tan theo dòng đời...
**** Mari Jane ****
 

Về với anh

Em trở về sau khoảng lặng xa cách
Anh vẫn chờ như vọng phu ngày ấy
Muốn để cho người người cùng biết
Anh chân thành, anh yêu em thế đó
P.s//....cảm hứng nhại
Hình ảnh: Em trở về sau khoảng lặng xa cách
Anh vẫn chờ như vọng phu ngày ấy
Muốn để cho người người cùng biết
Anh chân thành, anh yêu em thế đó
P.s//....cảm hứng nhại
?

XIN THẦY HÃY DẠY CHO CON TÔI

XIN THẦY HÃY DẠY CHO CON TÔI
(Trích thư của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai ông theo học)
Con tôi sẽ phải học tất cả những điều này, rằng không phải tất cả mọi người đều công bằng, tất cả mọi người đều chân thật. Nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết cứ mỗi một kẻ vô lại ta gặp trên đường phố thì ở đâu đó sẽ có một con người chính trực; cứ mỗi một chính trị gia ích kỷ, ta sẽ có một nhà lãnh đạo tận tâm. Bài học này sẽ mất nhiều thời gian, tôi biết; nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết rằng một đồng đôla kiếm được do công sức lao động của mình bỏ ra còn quý giá hơn nhiều so với năm đôla nhặt được trên hè phố...
Xin thầy dạy cho cháu biết cách chấp nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến thắng.
Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kỵ.
Xin dạy cháu biết được bí quyết của niềm vui chiến thắng thầm lặng. Dạy cho cháu biết được rằng những kẻ hay bắt nạt người khác nhất lại là những kẻ dễ bị đánh bại nhất...
Xin hãy giúp cháu nhìn thấy thế giới kỳ diệu của sách... nhưng cũng cho cháu có đủ thời gian để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc sống: đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn trong ánh nắng và những bông hoa nở ngát bên đồi xanh.
Xin giúp cháu có niềm tin vào ý kiến riêng của bản thân, dù tất cả mọi người xung quanh đều cho rằng ý kiến đó hoàn toàn sai lầm...
Xin hãy dạy cho cháu biết cách đối xử dịu dàng với những người hòa nhã và cứng rắn với những kẻ thô bạo. Xin tạo cho cháu sức mạnh để không chạy theo đám đông khi tất cả mọi người đều chỉ biết chạy theo thời thế.
Xin hãy dạy cho cháu biết phải lắng nghe tất cả mọi người những cũng xin thầy dạy cho cháu biết cần phải sàng lọc những gì nghe được qua một tấm lưới chân lý để cháu chỉ đón nhận những gì tốt đẹp...
Xin hãy dạy cho cháu biết cách mỉm cười khi buồn bã, xin hãy dạy cháu biết rằng không có sự xấu hổ trong những giọt nước mắt.
Xin hãy dạy cho cháu biết chế giễu những kẻ yểm thế và cẩn trọng trước sự ngọt ngào đầy cạm bẫy.
Xin hãy dạy cho cháu rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ cho người ra giá cao nhất, nhưng không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim và tâm hồn mình...
Xin hãy dạy cho cháu ngoảnh tai làm ngơ trước một đám đông đang gào thét... và đứng thẳng người bảo vệ những gì cháu cho là đúng...
Xin hãy đối xử dịu dàng với cháu nhưng đừng vuốt ve nuông chiều cháu bởi vì chỉ có sự thử thách của lửa mới tôi luyện nên được những thanh sắt cứng rắn.
Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cháu phải luôn có niềm tin tuyệt đối vào bản thân, bởi vì khi đó cháu sẽ luôn có niềm tin tuyệt đối vào nhân loại.
Đây quả là một yêu cầu quá lớn, tôi biết, thưa thầy. Nhưng xin thầy cố gắng hết sức mình, nếu được vậy, con trai tôi quả thật là một cậu bé hạnh phúc và may mắn

Thứ Tư, 13 tháng 8, 2014

Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Hòa Vang

NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN HOÀ VANG

Bùi Ánh
Cao học 18 – LLVH, Đại học Vinh

PHONGDIEP.NET- Hòa Vang là một tác giả có phong cách nghệ thuật khá độc đáo trong văn học Việt Nam giai đoạn Đổi mới. Truyện ngắn của ông vận dụng nhiều hình thức ngôn ngữ trần thuật đầy biến ảo đem lại những bất ngờ, thú vị cho độc giả. Khảo sát ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn tác giả này, chúng tôi hi vọng sẽ nhận diện sâu hơn, chính xác hơn đặc sắc truyện ngắn Hoà Vang từ một phương diện nghệ thuật cụ thể. Nhìn chung, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Hòa Vang có ba đặc điểm nổi bật sau đây:

1. Ngôn ngữ trần thuật đậm tính khẩu ngữ suồng sã

Từ sau 1986, văn học với nhiều bước chuyển biến trong tư duy nghệ thuật kéo theo đó là sự đổi mới trên nhiều bình diện: từ đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người đến những cách tân về thi pháp. Mỗi tác giả truyện ngắn có một cách nhìn, cách đào sâu hiện thực riêng không ai giống ai nhưng họ lại bắt gặp ở nhau về hình thức thể hiện ngôn ngữ - đó là tính hiện đại trong ngôn ngữ trần thuật. Tính chất hiện đại này đã giúp họ thu hẹp được khoảng cách giữa truyện kể với hiện thực cuộc sống. Bên cạnh những ngôn ngữ đài các, trang trọng, quyền uy là thứ ngôn ngữ khẩu ngữ, chợ búa, vỉa hè. Hiện tượng này chúng ta bắt gặp không ít trong các tác phẩm truyện ngắn sau 1986, đặc biệt là trong sáng tác của những lớp người trẻ với kiểu ngôn ngữ mạng, ngôn ngữchat – internet.

Trong truyện ngắn Hoà Vang, việc sử dụng ngôn ngữ - khẩu ngữ mang tính vùng miền đã tạo ra một hiệu quả thẩm mĩ nhất định cho việc thể hiện nội dung tư tưởng của truyện. Lói cho em biết: Hạnh phúc nà ló ở chính tay mình. Phải quyết niệt đi thôi…Doạlạt nà chính thôi đấy, mấy cái thằng cha giấy giấy bút bút ấy, trông thì có vẻ nắm, nhưng chỉ giơ dao nên nà vãi ninh hồn ngay đấy mà. Báo trước cho mà biết, án mạng nà đây té đấy nhé. Ấy, lói trước rồi đấy. Không có nại trách nhau  Sở Khanh”(Tâm hồn chó). Đây là kiểu ngôn ngữ mang đậm dấu ấn của miền Bắc, phát âm không phân biệt được âm l và n, sự đảo lộn giữa hai âm tiết khi phát âm.

Bên cạnh đó, truyện ngắn Hoà Vang còn sử dụng cả những tiếng lóng, những từ ngữ tục, những câu chửi mang tính thô tục, thiếu tôn trọng và có thể nói là “vô văn hoá”, những kiểu viết tắt gây khó hiểu... được người trần thuật sử dụng khá thường xuyên. Ở dạng này chúng ta bắt gặp trong Ăn kêu với kiểu viết đầy hình ảnh, đầy cách suy luận “KAMA”, kể cả trong nhan đề của tác phẩm cũng được ông đắc dụng “Hiện tượng HVEYA”; hoặc ở Chim sứ: “Mẹ kiếp! Người chứ không phải là chim. Lại còn già nữa chứ! – Nó văng tục, nhổ nước bọt, hạ súng xuống, liếm mép”. Việc vận dụng thích hợp mảng ngôn từ ít có giá trị thẩm mĩ tự thân này, trong một chừng mực nhất định, vẫn có thể nâng cao hiệu quả trần thuật. Ở giai đoạn trước đây cách nói không có trật tự trên dưới của những người tham gia giao tiếp rất hiếm khi xảy ra bởi cái văn hoá Nho gia đang thấm đẫm và ngự trị sâu đậm bên trong mỗi con người, bên trong tầng ngầm văn hoá dân tộc , thì giờ đây, trong truyện ngắn đương đại, kiểu nói “hỗn láo”, "xấc xược", “vô bổ”, “thiếu văn hoá” cùng những hành động “lỗ mãng”, “vô lối” của lớp trẻ không còn quá lạ tai, chướng mắt nữa. Tất cả những điều đó nhằm phê phán một mảng xã hội bộn bề, mọi chuẩn mực đạo đức bị đảo lộn, sự tụt dốc về nhân cách của lớp trẻ. Nhiều cây bút đã không ngại sử dụng thứ ngôn ngữ trần thuật "thiếu thiện cảm", nhằm “lạ hoá” ngôn từ trong giao tiếp để làm nổi bật sự biến chất của những con người trẻ trong xã hội hiện đại. Đây là một trong những cách nói năng của lớp trẻ trong khi giao tiếp với người lớn tuổi. Đây là một trong những tình huống mà nhân vật làm nghề gác cổng sân bóng đá nói chuyện với đám trẻ trong truyện Ôi! Marađôna:

  • Có gì dạy bảo con cháu thế, bố?
  • Bố con gì? Vé đâu? Đưa xem đây!
  • Ái chà. “Ban căng” gớm nhỉ. Chắc bố toàn sài ngô bắp với hạt bo bo nên cái giọng nó không được mềm như chúng con đây chuyên dùng gà hầm nhồi hạt sen ninh dừ, bún mọc với giò lụa thái chỉ. Bố mà quát nữa, con hãi, con mà “pít-xê-tút-xuỵt” ra đây là trách nhiệm bố làm mất vệ sinh đấy nhé! Xoát vé phỏng? Xong béng!
Nó gí vào mũi ông một tấm vé mời…giấy lụa, chữ nổi, viền kim nhũ.
Thằng khốn, cái mặt nó đẹp mà đểu, cái giọng nó ngọt xỉu mà xỏ lá”. Ông lúng túng:
  • Thế.. thế sao lại ngồi ở đây…không đúng chỗ. Hử hử?
  • Nó ngả ngớn, bả lả kéo ông lại:
  • Hơ hơ hơ…này, chỗ bố con, con phát biểu chân tình với bố đấy nhé: tư duy của bố cũ lắm, gay đấy! Tiêu chuẩn thấp mà lại cứ hưởng cao thì mới đáng “ọi cho nó vãi linh hồn” ra chứ bố. Còn như con giai bố đây, vé là ở tận cái nơi có lọng vàng tán tía kia, mà lại bò xuống đây ngồi, thì phải là được khen chớ. “Đồng cam cộng khổ” đi sâu đi sát quần chúng “chớ bộ”.
Mặt ông đực ra. Nó gật gù nhìn ông rồi chợt nghiêm mặt, đổi giọng:
  • Khổ, tội nghiệp bố. Để con khai thật cho bố nghe nhé. Con là một thằng “phe”, bố rõ chưa. “Phe” thứ thiệt, quân cặn bã chạy “mánh” chỉ biết có tiền…” [3, tr 195-196].

Đến tình huống thứ hai cũng với một thứ ngôn ngữ thô tục, một thái độ bất thành kính, vô văn hoá của lớp người kiểu Chí Phèo trong xã hội mà ông gặp phải:
- Anh kia! Ra đây. Sao lại ngồi chỗ của trẻ con?
Nó vặc lại liền, lớn tiếng hơn ông. Mắt trợn, mang phồng.
  • Cái gì? Đi lối nào? Đặt chân vào đâu mà ra hả? Khâu mõm lại thằng ngợm!
Ông ngớ người trước sự thô bạo, tục tằn. Lại ắng cổ vì nhận ra một sự thực. Người ta đã bán vé cho thiếu nhi nhiều hơn chỗ ngồi quy định gấp hai lần để cân bằng hoàn toàn việc giá vé cho giá vé thiếu nhi được giảm năm mươi phần trăm. Các cháu ngồi trồng đống trồng khê lên cả những vệt lối đi tí xíu. Ông nuốt khan cái vị cay cay tự nhiên xộc lên trong cổ, hỏi vớt vát:
  • Thế vé đâu? Tông cửa vào lậu vé hả?
  • Lậu cái bát hương ông vải nhà mày hả? Nống mắt lên, thằng ngợm…Bố to xác, tốn chỗ, bố tự lo những bốn vé đây. Còn muốn gì? Hả, hả! Cũng nói luôn cho thằng ngợm già nghe: tao không có rửng tiền đâu mà mua. Tao “trấn” đấy. “Trấn” của bốn đứa trẻ con đấy! Xong hẳn chưa? Thôi, cút mẹ mày đi! Đừng đứng đấy, ngứa củ ráy bố…” [3, tr 197-198]

Đoạn văn sau đây trong Đại hùng kê là bằng chứng của một thứ ngôn ngữ giao tiếp đáng kinh hãi xuất hiện đậm đặc trong truyện ngắn hôm nay: Phéng mẹ nó một nhát với cái lão "hâm đơ" viêm màng túi mãn tính cùng đời ấy cho xong phắt đi. Thiếu gì các “víp”, các “xếp” hảo ngọt. Chị mới sắp bốn mươi cái lơ thơ tơ liễu buông mành, sợ gì?. Mà dạo này lại đang đẫy ra đấy, phây phây lắm, ngọt bột canh Ajinô Môtô lắm. Cứ yên tâm vững bước mà đi…bước nữa, cho nó hả cái đời” Có một sự đối nghịch rõ rệt nếu soi xét bằng con mắt thực dụng giữa lão chồng hâm đơ và người vợ còn ngọt bột canh Ajinô Môtô lắm. Đúng như hoàn cảnh hiện tại của nhân vật trong truyện, ông lão nhà giáo dạy sinh vật với đồng lương ít ỏi không đủ để trang trải cuộc sống và với thu nhập kém vợ đến hai mươi lần. Điều này đồng nghĩa với sự thay đổi trong tình cảm và thái độ đối xử giữa vợ chồng với nhau. Điều này càng trở nên thuyết phục hơn nhờ ngôn ngữ phố phường thời hiện đại.
Có thể nói, truyện ngắn đương đại đã tái hiện bức tranh xã hội, đời sống hiện đại của con người một cách sinh động và đa dạng từ phương diện lời ăn tiếng nói của con người. 

2. Ngôn ngữ trần thuật mang tính diễm ảo, trữ tình

Thế giới và con người hiện lên sinh động trong một bức tranh ngôn ngữ đầy lực hút hấp dẫn và ma quái. Đến với văn học sau đổi mới, người đọc không khỏi không bắt gặp một “thứ ngôn ngữ nằm giữa đường biên của hư và thực, bình thường và linh dị nhằm diễn tả một thế giới kì bí, đầy thách thức đối với trí tuệ, tình cảm con người” (Bùi Thanh Truyền). Vì thế, ngôn ngữ trong truyện ngắn Hoà Vang cũng không nằm ngoài hiện tượng này.

Tiếp cận với truyện ngắn của ông, trước hết, chúng tôi nhận thấy đó là một thứ ngôn ngữ với nhiều cảm giác, hơn nữa, nó còn tạo được “cảm giác mạnh” cho độc giả ngay từ lúc bắt đầu “đụng độ” với nhan đề tác phẩm như Hư ảnh, Quyền không điên, Nhân sứ, Tổ tông truyền, Sự tích những ngày đẹp trời, Trong ảo giác Hồng ngọc, Đắng ngọt quán,…Một thế giới đầy những Phật, những La Hán, những thần linh, thiên đình, yêu quái trong Nhân sứ đã đem lạ cho người đọc một cảm giác vừa thiêng liêng vừa rùng rợn bởi những chiêu đòn, sắp bày trận địa của yêu ma quỷ quái. Rồi cái thứ ngôn ngữ của thế giới đầy huyền bí xa xăm của thế giới không phân biệt được trần gian đời thực với âm ti địa phủ và chốn thanh tịnh của Phật giới: “cái đêm mịt mù tử khí”, “đống xương trắng của Bạch Cốt Tinh…với di cốt tan nát của một yêu quái đã bị Tôn Sư huynh ta đánh chết”, “chỉ một mình ta đã đứng chết, sửng sởn hết gai người…lại càng thấy ghê rợn”, “một tia chớp xé toang rồi không chịu tan lặn, nhằng nhằng vĩnh viễn thứ ánh sáng loá mắt”. Đó còn là thứ ngôn ngữ đầy sương mù của xứ sở người “hư ảnh” trong truyện ngắn cùng tên: “Y rùng mình…tai y vẫn ăm ắp, nêm lèn tiếng những con người. Gào thét, bông phèng, van lơn…Thư tiếng trùng điệp, quây tròn, tua tủa hướng chõ vào y”, đầu óc mụ mị, mê lú”, “láng máng, xột xệt cảm thấy những bất trắc vu vơ bắt đầu lởn vởn…”. Rồi hàng loạt những từ ngữ gợi cảm giác rùng rợn, khiếp đản như đang phải đối diện với thế giới đầy sương mù của không gian chập chờn giữa đêm khuya mờ ảo, giữa một thế giới không phân biệt được rạch ròi: Ầm ào, mụ mị, mê lú, sột sệt, lởn vởn, ma ám, héo quắt, gầm rống, quẫy lộn, cào cấu dữ dội, mơn trớn, kinh hãi, bất giác, rờ rẫm, bấu miết, mông lung, cứng lạnh, sục sạo, run run lẩy bẩy, đông cứng, lạo sạo,… Ngôn ngữ đầy cảm giác, gợi hình trong truyện mang lại cho người đọc cái suy nghĩ bị vây bủa, giăng mắc, bị ám ảnh như đang phiêu du trong thế giới truyện “kì ngôn” của tác giả. Không những thế, nó còn là một thế giới gợi mở sự hứng thú, những bất ngờ cho người đọc. Bên cạnh đó, thứ ngôn ngữ đa thanh, giàu hình ảnh cũng đã góp phần tạo nên nét độc đáo cho truyện ngắn của ông. Và một lẽ dĩ nhiên, chính hệ thống ngôn từ này đã kiến tạo nên một không gian nghệ thuật mang đầy những đặc trưng kì ảo. Đó là hệ thống không gian phi thực như trời, Tây thiên, thuỷ linh động, thiên đình, … Rồi hệ thống những tên gọi đầy tính phi thực kiểu: Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thiên Lôi, Chúa Sấm Sét, Bụt Nhân Từ Hỉ Xả Vô Biên, Tam Bá Thượng Đẳng Đầu Lĩnh Thiên Cung, Thiên Lôi… “đã trở thành bầu khí quyển mới lạ đòi hỏi ngôn từ phải có sự bứt phá, vượt ngưỡng để thích ứng” (Bùi Thanh Truyền).

Sự mong manh giữa hai bờ hư – thực, lối kết hợp tài tình giữa nguyên tắc tả thực và nguyên tắc tượng trưng trong bản thân huyền thoại, kì ảo đã trao cho nó thứ ngôn ngữ đầy chất thơ. Bởi thế, chúng ta bắt gặp không ít những trang văn thấm đẫm chất thơ trong truyện ngắn của ông. Phải chăng đó là sự kết hợp hài hoà giữa chất tự sự và chất thơ tạo thành những câu văn xuôi trữ tình đem lại một trạng thái êm dịu, nhẹ nhàng cho con người? Không hẳn vậy, đó còn là những chất liệu đem đến cảm xúc thẩm mĩ mới cho con người hiện đại. Ở một số truyện như Sự tích những ngày đẹp trời, Ăn kêu, Áo độc,...lời văn khá công phu đẽo gọt, đầy chất trữ tình, thơ mộng, có những câu chữ như bộc phát từ vô thức mà thiếu đi sự làm chủ của ý thức, lí trí. Đây là một trong những đoạn văn giàu chất trữ tình trong truyện Áo độc:“Những ngọn kim đan nhấp nhô như đỉnh sóng tới tấp, ào ạt. Sóng thương, sóng nhớ, sóng thuỷ chung…giữa cánh đồng hoa chan cỏ lác sau làng, hình như lại bên một con sông nước trong leo lẻo, vừa như ngọc bích, vừa như mắt mèo nữa”, “Sao em đẹp thế? Và em có chồng hay chưa…Ta đây. Trời đây. Mênh mông trên cả đầu em. Cả con sông và tất thảy những bông hoa kia nữa. Cả nghìn ngọn núi kia và cả vầng mặt trời kia nữa. Ta ngõ lời cùng em. Hãy đi cùng ta, vui cùng ta, ngủ với ta. Hãy tin ta đi”

Hay trong Sự tích những ngày đẹp trời là những trang văn thấm đẫm chất trữ tình, những trang văn này nó vừa làm cho câu chuyện tình yêu càng thêm lãng mạn vừa làm cho tính chất của huyền thoại – cổ tích tăng lên một cách rõ rệt: “Ngấn nước vừa chớm chạm ngực thì, như không nén nổi nữa. Mỵ Nương bất giác đưa hai tay vuốt xoã đổ suối tóc mây bồng bay lên, giang hai tay, mắt nhắm nghiền lại, nàng nhảy ào, trằn mình uốn lượn giữa dòng suối và buột lên tiếng hát trong vắt…những giọt nước tí xíu vẫn đang trôi bin rịn trên da thịt nàng…những giọt nước ấy ánh sắc hồng ngọc, dần tụ lại và đột khởi, trong không gian tĩnh lặng, như dội cả dòng suối lên”.

Kiểu ngôn ngữ này còn bắt gặp được trong truyện ngắn Ăn kêu: “Sương thu ẩm rồi ướt vai, không hề thấy lạnh. Mùi hoa sữa về khuya theo sương sà xuống, quẩn quanh vờn vào mặt mũi, nồng nàn mãi lên, không hề động lòng…” . Hiện tượng “nhập đồng ngôn ngữ” như thế này nó chứng tỏ được sức mạnh của thể loại truyện ngắn. Nó có thể du nhập tất cả các thể loại vào trong mình nó, vừa chứng tỏ được năng lực tung tẩy ngòi bút của tác giả.

Với tư cách là công cụ của tư duy, là “cái vỏ của tư duy”, sự biến đổi của ngôn ngữ văn học liên quan chặt chẽ đến sự biến đổi của tư duy văn học. Ngôn ngữ của truyện ngắn hôm nay, linh hoạt, sinh động, giàu chất đời thường, mang đầy cảm giác và cũng rất trữ tình, tinh tế. Vì thế, đến với mảng thể loại này độc giả phải căng hết vốn ngôn ngữ mình có được để cảm, để nhận và để thưởng thức những “lớp vỏ tư duy” đầy biến ảo này.

3. Ngôn ngữ trần thuật mang màu sắc dân gian

Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ trần thuật linh hoạt, đậm chất hiện đại thì kiểu ngôn ngữ mang dáng dấp của nét cổ xưa, dân gian cũng được phát huy cao trong các truyện ngắn của ông.

Trước hết, màu sắc cổ tích được thể hiện ở kiểu mở đầu của truyện, trong truyện cổ tích với cái môtip “ngày xửa ngày xưa” cũng xuất hiện rải rác trong các thiên truyện của Hoà Vang. Đó có thể là cái mở đầu trực tiếp, cũng có thể là cái mở đầu gián tiếp bằng cách dẫn dắt câu chuyện gián tiếp từ lời của một người kể chuyện nhìn có vẻ rất khách quan kiểu như: “Ngày xửa ngày xưa - ấy là vì các chuyện cổ, cứ thường được mở đầu như thế - các loài vật sống rất gắn bó với nhau cho nên vui lắm, nhất là trong những ngày Hội” (Huyền thoại rồng). Hay kiểu mở đầu gây cho con người cảm giác như quen biết, thuần thục hết: “Như mọi người đều biết…Lại cứ theo thế mà suy, ai cũng coi là cố nhiên, không còn gì phải đôi hồi, bàn cãi… mà sự thực quả đúng như thế.” (Sự tích những ngày đẹp trời); Không những thế mà chúng ta còn bắt gặp kiểu mở đầu ở một thời gian đã lâu lắm rồi, ở tận mãi quá khứ xã xôi với kiểu ngôn ngữ đài các khi môt tả nhân vật: “Ngày ấy, có một Người-Cao-Lớn dị thường…Ông là một bậc cao nhân, hiền minh, thần văn, thánh vũ. Sảy đến một ngày, giữa trời quang, trong một cuộc tuần du thanh bình…” (Tổ tông truyền); “Cứ kể về xa nhất thì đã có một thời Loài Người với Loài Vật đều có chung một thứ tiếng nói…thuở ấy thật êm đềm đến mức sau này người ta cứ nghĩ rằng nó chưa bao giờ có, nó chỉ là sản phẩm của bịa đặt hay đến những giấc mơ” (Sự tích con lợn ống tiền); “Con ngựa bay: Con ngựa có cánh Pêgazơ…Ấy thế mà có một lần, các chư thần trên Ôlem tưởng mó mất tích. Nó lâu về quá…và khi về thì nó ướt lướt thướt” (Lý ngựa bay); “Có một thuở người ta không có việc gì mà phải chăm chú đến cái sự mình đang đi con đường nào…” (Đại hùng kê). Với kiểu dẫn dắt như thế, Hoà Vang đã gây được một sự chú ý cao độ của độc giả khi bắt đầu “đụng độ” với tác phẩm, khêu gợi ở độc giả một sự tò mò về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Hơn nữa, việc mở đầu như thế còn tạo nên nét cổ xưa cho câu chuyện được kể. Hẳn ai cũng biết rằng, với kiểu mở đầu như thế, nhà văn tha hồ mà khai thác câu chuyện bịa của mình, tha hồ phóng túng ngòi bút theo kiểu kì ảo, mơ hồ. Và đến lượt người đọc cũng tạo ra một trường liên tưởng độc đáo, khai phóng tư duy suy nghĩ và cùng với tác giả sáng tạo thêm phần truyện cho thêm phong phú, cho thêm đa dạng.

Bên cạnh đó, màu sắc dân gian còn được bộc lộ qua hệ thống nhân vật và nội dung câu chuyện muốn được chuyển tải đến độc giả. Phần lớn sáng tác của Hoà Vang là xây dựng cho mình một câu chuyện hoàn toàn mới mang dáng dấp của câu chuyện cổ tích. Tác phẩm của ông chủ yếu có kiểu kết thúc nhân bản. Nhân vật trong truyện luôn phải trải qua những khổ nạn ở đời rồi mới được hưởng phần thưởng xứng đáng ở đời, ngoài những câu chuyện viết theo lối nhận thức lại thì câu chuyện lại chuyển sang một hướng khác nhưng trong đó dáng dấp của nhân vật cũng có những hạnh phúc nhất định mà nhà văn trao ban cho. Dù viết ở dạng nào thì Hoà Vang cũng luôn “nhất quán trong một trường nhìn cổ tích” cho nên từng trang văn, từng mạch văn của ông luôn làm cho độc giả hài lòng về số phận của nhân vật và đưa đến cho họ những cảm giác hả hê, sảng khoái sau khi kết thúc câu chuyện. Ở kiểu này chúng ta bắt gặp rất nhiều trong Ăn kêu, Mèo hên, Bụt mệt, Tâm hồn chó, Hư ảnh, Huyền thoại rồng, Sự tích con lợn ống tiền, Sự tích những ngày đẹp trời, Vẹn nguyên trong dang dở,…Hầu hết, nhân vật trong truyện đều là nhân vật có hậu, được sống hạnh phúc sau hồi kết của câu chuyện được kể. “Y” trong Hư ảnh cuối cùng cũng có người xem Y còn tồn tại ở cõi đời này sau một thời gian bị người đời “bỏ qua”, rồi Y cũng có vợ và được sống như bao con người khác. Mỵ Nương trongSự tích những ngày đẹp trời cũng được sống thật với con người của mình trong nỗi nhớ nhung với chàng Thuỷ Tinh, Hoài trongQuyền không điên cũng đã chiến thắng trên mặt tinh thần về căn bệnh truyền kiếp của gia đình mình,…và rất nhiều những nhân vật khác đã có được những tiếng cười, niềm hạnh phúc trong cuộc sống. Bằng cách đặt vấn đề này, Hoà Vang đem lại một sự “trấn an” về tinh thần cho con người trong thời buổi đầy nhiễu nhương và rối rắm, một thời đại mà con người rất dễ tổn thương về mặt tinh thần.

Đi cùng với những hình thức sử dụng ngôn ngữ đó, Hoà Vang đồng thời cũng tạo lập nên một kiểu giọng điệu nghệ thuật khá đặc thù. Là một phạm trù thẩm mĩ có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nên phong cách của nhà văn, giọng điệu thể hiện “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện thực được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [1, tr. 134]. Trong truyện ngắn của Hoà Vang, giọng điệu hết sức đa dạng, biến ảo linh hoạt với nhiều sắc thái. Tiếp cận với truyện ngắn của ông dễ dàng nhận thấy giọng giễu nhại, chất hài hước với khuynh hướng dân chủ, phi thiêng hóa; giọng quan hoài da diết, cái nghịch dị với cảm hứng trước nỗi đau, thân phận con người… Hoà Vang đã cố ý tạo ra cho mình một chất giọng, một ngôn ngữ ứng khớp với cái cảm hứng, khuynh hướng trong mạch văn của mình. Có thể khẳng định, ngôn ngữ và giọng điệu ấy đã góp phần tạo nên một bút pháp nghệ thuật độc đáo, riêng biệt của Hòa Vang trong dòng chảy văn xuối Việt Nam hiện đại.

Tài liệu tham khảo

1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Bùi Thanh Truyền , Sự đổi mới của truyện có yếu tố kỳ ảo sau 1986 qua hệ thống ngôn từ, http://vienvanhoc.org.vn.
3. Hòa Vang (1996), Sự tích những ngày đẹp trời, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
4. Hòa Vang, Hạt bụi người bay ngược, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2005.

Tháng 6 tình yêu

                           
         Cái oi bức của mùa hạ rồi cứ tưởng nó sẽ lấy đi hết những ngày tháng u buồn  đã qua. Lặng lẽ trôi, lặng lẽ quay về như một miền kí ức trong sâu thẳm được khơi gợi từ những giọt mưa tí tách rồi ầm ầm như thác đổ của cơn mưa đầu hạ. Những trận mưa rả rích, lách tách bên hè phố dù tấp nập dòng người hoảng loạn vì cơn mưa bất chợt nhưng trong ánh nhìn đầy vẻ thất vọng phố chẳng còn ai, chẳng còn một tiếng bước chạy trốn mưa nào. Nơi này chỉ có mình em trên con phố thoi đưa đùa vỡn với những hạt mưa ngày một nặng hơn…Qua một góc phố nhỏ, nhìn hàng cây bằng lăng như tươi vui hẳn vì được ngâm mình trong cái mát của những giọt mưa vội tuôn sau những ngày phải phải hứng chịu tia cực tím nặng độ đầu mùa. Những giọt mưa lách cách nhỏ giọt như đang ve vãn, đùa giỡn sự thèm khát của lá bằng lăng từ những ngày dài phải hứng chịu cái oi ả không khoan nhượng của mùa hè. Đúng như vây, những hạt mưa vô tâm nhưng  bằng lăng đang cho đó là một sự xoa dịu những ham muốn của nó. Cứ thế, sự ve vãn đó càng làm cho những tán lá cảm nhận được sự hạnh phúc mượt mà thiên nhiên ban tặng. Rồi mưa rào kết thúc, còn lại vài giọt lác đác không đủ làm cho bằng lăng nồng nàn như những gì vừa mới chớm nở. Qua một đêm có vẻ như dịu mát của đất trời, mặt trời ló rạng đưa theo những tia nắng oi bức chiếu khắp đất trời. Sáng nay đây, dãy bằng lăng như rũ rượi đi vì thiếu vắng thứ gì đó mà nó không thể stt cho con người hiểu.
 Một ngày, hai ngày, ba ngày….thời gian trôi đi, có ai đó đang chờ đợi điều gì, chờ đợi một cái gì đó rất thiêng liêng và cao cả. hàng cây bằng lăng, dãy ghế mà em thường ngồi vẫn thế. Chỉ có điều, bằng lăng ngày một lớn hơn, xum xuê hơn và dãy ghế như có rêu xanh phủ lên làm nó như cổ đi theo năm tháng. Cứ thế, mỗi chiều về, em lại về với hàng cây xanh và ghế đá phai nhạt màu mới rồi lại stt những dòng mood lên đó như khắc dấu kỉ niệm nhạt nhòa đã qua đi. Em như muốn mình sống mãi với kỉ niệm đầy ắp tiếng cười và hạnh phúc của những ngày bước chân em dẫm lên gót dày anh đều đều về bên con phố nhỏ một chiều mà không có chiều ngược lại. Mơ màng em ngồi nhìn những chiếc lá vàng rơi thổn thức khẽ lạo xạo trên hè bỗng tiếng chuông điện thoại reo với những lời bài hát quen thuộc “Về đây bên nhau ta nối lại tình xưa…”, em giật mình khi ngỡ rằng anh đã gọi cho em, nhẹ nhàng em bốc máy và nói:
Em nghe rồi Anh ơi…!
Đầu dây bên kia liền trả lời lại như kiểu em đang nói chuyện với họ
Ừ, em đang làm gì đấy?
Em mải miết nói, em không còn ý thức được em đang nói chuyện với ai, em vẫn mơ màng em đang nói chuyện với người em yêu, em nhớ…! Khi đầu dây bên kia phát ra những từ:
Em về chưa? Về sớm nấu ăn để anh đi làm sớm nhé.
Em bỗng giật nảy mình vì người đang nói chuyện với em không phải là anh, không là người em đang nhớ mà đó chính là…
Em trở lại thực với chính con người của em sau cuộc điện thoại hoảng loạn, em như mất đi thần trí khi cứ mông lung quá khứ xa vời mà không nhận ra được những gì đang tồn tại quanh mình. Trở về nhà sau khi cân bằng lại mọi thứ, em nghĩ rằng thế là ổn. Vừa bước chân vào đến nhà, một vài cuốn sách bị vứt ra khỏi chỗ nằm quen thuộc vì cu con nghịch ngợm mà chưa kịp nép dọn, vội vã nhặt nó lên và xếp vào cho nó yên ổn. Đảo mắt nhìn, lại bắt gặp, lại gợi cho em nhớ đến anh, cuốn sách ngày nào anh tặng cho em giờ vẫn còn đó, vẫn còn thơm mùi giấy và hơi tay dòng chữ anh đề viết tặng em. Thay đổi số phận hay thay đổi định mệnh? Thay đổi điều gì khi chúng ta xa nhau mãi mãi, mãi mãi chẳng còn nhìn thấy nhau trong cuộc đời này…Em vội vàng lật ngữa những trang sách còn dang dở đọc, rồi ngồi ngẫm những stt trong quá trình đọc nó, rồi bất chợt em nhìn dòng chữ còn nguyên mùi mực “Nếu lỡ mai này ta không còn chung bước, em đừng buồn vì đó là định mệnh chia rẻ tình ta”. Em không biết anh đã viết nó lên từ khi nào? Phải chăng anh đã chuẩn bị trước mọi thứ mà em không mảy may biết? Anh thật ích kỉ, nếu anh cho em biết một tý thôi chẳng phải em đỡ buồn cho những ngày ở hiện tại này không anh? Em khẽ cầm bút và gieo lên những con chữ đẫm nước mắt để gửi tới anh nơi xa “em sẽ ổn khi mọi việc dần qua, em sẽ tốt khi quanh em có rất nhiều người thương yêu, em sẽ xinh khi em không còn nghĩ gì về anh, anh biết không?”… Đó…điều em gửi cho anh, anh hãy đến, cầm lấy nó mà đọc, đọc cho biết em đã sống và sống như thế nào và em sẽ quên anh như thế nào, đến đi anh, hãy đến đi, hãy đến khi em còn đang nghĩ về anh…!
Đêm dần buông, mọi thứ thật tĩnh tại riêng lòng em như nổi sóng cuộn trào khi đứng ngắm nhìn đường phố vắng tanh bước chân người mà phượng vĩ cứ khoe sắc rực đỏ của mùa hoa tháng 6 đầy chia ly này. Gió thoảng nhẹ đưa, cánh phượng lác đác đổ xuống đỏ cả một góc phố như màu máu loang lỗ trong khoảng lặng không mà chẳng còn ai để tâm đến nữa. Đêm tĩnh mịch, em như sống với con người thật của chính mình – một nỗi nhớ vò xé tâm can, một nỗi đau mất mát chưa nguôi ngoai, một ân hận chưa kịp lên ngôi,…tất cả đã mang đến cho em cảm giác rợn ngợp khi nhớ về những khoảnh khắc nhuốm đẫm màu sầu đau. Càng về khuya, trời đổ vài giọt tý tách bên hiên cửa sổ, giật mình em cứ tưởng nước mắt đang rơi. À ra thế…ông đang khóc thay em, ông biết được lòng em đang rỉ máu, chỉ tiếc rằng, ông khóc nhưng nước mắt ông lại không mặn mòi như con người. Anh biết tại sao nước mắt con người có vị mặn không anh? Đó là con người có một cái tâm chân thành, có con tim biết đau khi nhức nhói, có ý thức khi hành động và có một tình cảm nồng nàn khi yêu thương đúng mực…! Lúc này đây, từng con chữ cứ hiện trào mà em không sao nói ra, viết ra nỗi vì những lẽ thường tình ở đời. Em muốn viết thật nhiều, muốn stt thật nhiều để một ngày nào đó anh hiểu rằng em đã yêu và nhớ anh như thế nào…? Khi định mệnh đã an bài, em về với số phận của em và anh đến với thế giới mới riêng và rất riêng. Nhưng anh à, em sẽ không hỏi anh rằng “Anh muốn chia tay phải không?” mà em sẽ nói rằng “chưa bao giờ em hết yêu anh”…!!!
                               Mari Jane